Quang cảnh phiên họp
Nâng cao hiệu lực quản lý, thúc đẩy số hóa toàn diện ngành thuế
Việc sửa đổi Luật Quản lý thuế được thực hiện trong bối cảnh hệ thống pháp luật tài chính – ngân sách quốc gia đang từng bước thích ứng với chuyển đổi số và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Sau hơn 5 năm thi hành, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 đã mang lại nhiều kết quả tích cực trong cải cách thủ tục, nhưng cũng bộc lộ bất cập trước sự phát triển nhanh của nền kinh tế số, thương mại điện tử, tài sản số và các mô hình kinh doanh xuyên biên giới.
Chính phủ xác định việc sửa đổi lần này là cấp thiết để thể chế hóa chủ trương của Đảng về đổi mới quản lý tài chính công, bảo đảm thống nhất pháp luật, tăng hiệu quả thu ngân sách và hỗ trợ người nộp thuế. Trọng tâm là chuyển đổi mô hình từ “quản lý – kiểm soát” sang “phục vụ – hỗ trợ”, ứng dụng công nghệ số, dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI) và định danh điện tử, hướng tới nền quản trị thuế hiện đại, minh bạch, hiệu quả.
Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) gồm 9 chương, 53 điều, được thiết kế theo hướng tinh gọn, bảo đảm rõ phạm vi điều chỉnh, tăng tính khả thi và đồng bộ với các luật chuyên ngành về thuế. Chính phủ nhấn mạnh bốn định hướng cải cách lớn: hiện đại hóa quản lý; bảo đảm minh bạch, công bằng; khuyến khích tuân thủ tự nguyện; và mở rộng hợp tác quốc tế trong thuế.
Nguyên tắc quản lý được mở rộng, lấy người nộp thuế làm trung tâm, chú trọng chuyển từ hậu kiểm sang quản lý rủi ro và ngăn ngừa vi phạm. Dự thảo quy định người nộp thuế tự xác định, kê khai và nộp thuế, cơ quan thuế tập trung hỗ trợ, giám sát, xử lý dữ liệu điện tử thay vì can thiệp thủ công. Đây là nền tảng cho mô hình quản lý dựa trên dữ liệu – một hướng đi mới phù hợp với chiến lược chuyển đổi số quốc gia.
Về cải cách nghiệp vụ và quản lý thuế theo dữ liệu, Chính phủ đề xuất phân nhóm người nộp thuế theo quy mô, lĩnh vực, mức độ rủi ro, áp dụng công cụ quản lý điện tử để tự động hóa quy trình. Đặc biệt, từ năm 2026, cơ chế thuế khoán sẽ được xóa bỏ, thay bằng kê khai theo hóa đơn điện tử. Dự luật cũng cho phép sử dụng mã định danh cá nhân làm mã số thuế, liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư – giải pháp then chốt nhằm minh bạch hóa quản lý và giảm thủ tục hành chính.
Cùng với đó, Chính phủ đề xuất xây dựng hệ sinh thái thuế điện tử kết nối các nền tảng thương mại, ngân hàng, hải quan và hợp tác quốc tế về thuế, phù hợp xu thế toàn cầu áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu và các chuẩn mực chống chuyển giá. Mục tiêu là bảo đảm công bằng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đa quốc gia, chống thất thu ngân sách và tăng khả năng thu từ các hoạt động kinh tế số.
Một điểm mới quan trọng là quy định cơ quan thuế có trách nhiệm bảo vệ người nộp thuế trong trường hợp xảy ra sự cố công nghệ. Nếu lỗi kỹ thuật khiến người dân không thể nộp thuế đúng hạn, cơ quan thuế phải chủ động khắc phục và không xử lý vi phạm. Đồng thời, dự thảo yêu cầu minh bạch thông tin, chuẩn hóa dữ liệu và bảo mật tuyệt đối, tăng cường niềm tin giữa người dân – doanh nghiệp – cơ quan thuế.
Dự luật cũng đặt mục tiêu rút ngắn 20–30% thời gian xử lý hồ sơ hoàn thuế, giảm 50% thủ tục hành chính, khuyến khích người tiêu dùng lấy hóa đơn, tố giác hành vi vi phạm, qua đó hình thành văn hóa tuân thủ thuế tự nguyện.
Làm rõ cơ chế, bảo đảm tính khả thi và công bằng trong quản lý thuế hiện đại
Tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn khẳng định Dự án Luật Quản lý thuế được trình trong thời điểm có ý nghĩa đặc biệt – khi cả nước vừa đạt kết quả thu ngân sách 9 tháng gần 2 triệu tỷ đồng, bằng 97% dự toán. Nhân ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10), Chủ tịch Quốc hội gửi lời tri ân cộng đồng doanh nghiệp đã đồng hành cùng Chính phủ vượt khó, tạo việc làm, nuôi dưỡng nguồn thu và góp phần vào tăng trưởng GDP dự kiến đạt 8% năm 2024.
Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, Luật Quản lý thuế cần được sửa đổi toàn diện, không chỉ để đáp ứng thực tiễn mà còn để tạo hành lang pháp lý cho quá trình chuyển đổi số, thương mại điện tử và hiện đại hóa quản lý nhà nước. Ông yêu cầu xây dựng hệ thống thuế hướng đến phục vụ người nộp thuế, minh bạch, công bằng và hiệu quả hơn, đồng thời phải loại bỏ những quy định chồng chéo, rườm rà gây khó cho doanh nghiệp.
Một trong những yêu cầu cụ thể được nhấn mạnh là phân loại người nộp thuế theo rủi ro và quy mô, ứng dụng dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo để tự động hóa đánh giá, giảm can thiệp thủ công. Chủ tịch Quốc hội cũng lưu ý việc xóa bỏ hình thức thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang kê khai thực tế để phản ánh trung thực doanh thu, đồng thời bảo đảm công bằng giữa các đối tượng nộp thuế.
Xây dựng hệ thống thuế hướng đến phục vụ người nộp thuế, minh bạch, công bằng và hiệu quả hơn
Đặc biệt, ông đề nghị làm rõ quy định sử dụng mã định danh cá nhân làm mã số thuế, trong đó phải quy định chặt chẽ về bảo mật, tránh rò rỉ thông tin, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình chuyển đổi số. Bên cạnh đó, vấn đề chống chuyển giá và tăng cường hợp tác quốc tế về thuế được xem là nội dung trọng tâm, giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào hệ thống tài chính toàn cầu, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, cạnh tranh lành mạnh.
Chủ tịch Quốc hội cũng lưu ý đến các bất cập thực tế trong thu ngân sách, như tình trạng “thu vượt – tất toán chậm – nợ thuế treo nhiều năm”, yêu cầu ngành Tài chính đánh giá toàn diện để điều chỉnh cách giao dự toán, bảo đảm thu đúng, thu đủ, không dồn áp lực lên doanh nghiệp. Theo ông, Luật Quản lý thuế sửa đổi phải giúp giảm thất thu nhưng không làm gia tăng gánh nặng hành chính, đồng thời khơi thông nguồn lực phát triển kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài.
Trình bày phần giải trình – tiếp thu, đại diện Bộ Tài chính nhấn mạnh rằng, Luật Quản lý thuế là luật về thủ tục, không điều chỉnh chính sách thuế cụ thể. Theo đó, các quy định về thu, miễn, giảm, hoàn thuế hay mức thuế suất thuộc phạm vi của các luật chuyên ngành như Luật Thuế GTGT, Thuế TNDN, Thuế TNCN…, còn luật này chỉ xác lập nguyên tắc và quy trình quản lý thuế thống nhất.
Về cơ chế thưởng cho cơ quan thuế, Bộ Tài chính khẳng định đây chỉ là khoản “thưởng vượt dự toán”, không phải cơ chế tài chính đặc thù như trước kia. Tỷ lệ thưởng dự kiến tối đa 10% trên số vượt thu, tương đương khoảng 8.000 tỷ đồng/năm, được chi trả không quá một lần tiền lương cho cán bộ, công chức, bảo đảm đúng tinh thần Nghị quyết 27 và Kết luận 83 của Trung ương. Tuy nhiên, Bộ cũng ghi nhận ý kiến của Ủy ban Kinh tế và cam kết báo cáo Bộ Chính trị để xin ý kiến về chủ trương trước khi thể chế hóa vào luật.
Về chính sách khuyến khích hóa đơn điện tử, Bộ Tài chính cho biết đã tham khảo kinh nghiệm quốc tế, trong đó Đài Loan quay số hóa đơn may mắn 2 tháng/lần với giải thưởng lớn; Trung Quốc, Bồ Đào Nha cũng áp dụng hình thức tương tự để khuyến khích tuân thủ. Việt Nam đề xuất trích 0,1% tổng thuế GTGT nội địa (khoảng 300 tỷ đồng/năm) để triển khai chương trình “hóa đơn may mắn” và thưởng người tố giác hành vi gian lận hóa đơn, nhưng Bộ thừa nhận cần rà soát để đảm bảo tuân thủ Luật Ngân sách Nhà nước, tránh chồng chéo, và có thể đưa vào phần dự toán tuyên truyền hỗ trợ thay vì tách riêng.
Về phối hợp quản lý thương mại điện tử, Bộ Tài chính cam kết hợp tác chặt chẽ với Bộ Công Thương để thống nhất quản lý, chống thất thu trong giao dịch xuyên biên giới. Đồng thời, sẽ tiếp tục rà soát quy định về hoàn thuế tự động nhằm xác định rõ điều kiện, trách nhiệm và giới hạn áp dụng, tránh rủi ro hệ thống, đảm bảo quyền lợi người nộp thuế.
Bộ cũng đề xuất tăng quyền chủ động cho cơ quan thuế trong quản lý dữ liệu, kiểm tra, ấn định thuế và cưỡng chế thi hành, đồng thời gắn trách nhiệm rõ ràng của từng cấp quản lý, đảm bảo minh bạch, liêm chính và hiệu quả trong toàn hệ thống.
Trần Hương