Lublin - Một thoáng miền Đông Ba Lan

Lublin - Một thoáng miền Đông Ba Lan
5 giờ trướcBài gốc
Lublin - Một thoáng miền Đông Ba Lan. (Ảnh TGCC)
Thành phố của các trường đại học
Từ Warsaw, tôi chỉ mất gần hai giờ để đi tàu lửa đến Lublin. Bỏ lại sự nhộn nhịp xô bồ của thủ đô Ba Lan, con tàu lướt qua những cánh đồng trải dài bát ngát, những ngôi làng xinh xắn trong ánh nắng chiều… trước khi dừng lại ở sân ga trung tâm Lublin.
Ấn tượng đầu tiên về thành phố này là sự yên bình, chậm rãi, nhẹ nhàng và không phô trương. Nó khiến cho người đi xa trở về, hay người lần đầu đến như tôi, cảm thấy dễ chịu, không bị choáng ngợp bởi sự hoành tráng, tấp nập, rực rỡ sắc màu của các đô thị lớn.
Lublin có lịch sử xây dựng và phát triển qua nhiều thế kỷ. Từ năm 1385, nơi đây đã nổi lên như một trung tâm giao thương, nối giữa Vilnius (Lithuania) và Krakow (Ba Lan). Đến nay, Lublin không chỉ đóng vai trò là trái tim của vùng Lubelskie mà còn là cái nôi văn hóa, giáo dục, tôn giáo của đất nước Đông Âu.
Quả như vậy, dù là một thành phố có dân số ở mức trung bình của châu Âu, Lublin là nơi tọa lạc của nhiều trường đại học và cơ sở tôn giáo. Theo thống kê, cứ chín người sống ở Lublin thì một người là sinh viên đang theo học ở đây. Trên đường, du khách có thể dễ dàng bắt gặp những nhóm sinh viên vừa đi vừa trao đổi bài vở, những cô cậu trẻ măng đạp xe đi học trong thành phố, những thư viện luôn sáng đèn bất kể ngày đêm.
Là một người làm việc trong ngành giáo dục nên mỗi khi có cơ hội, tôi thường tranh thủ tham quan khuôn viên của các trường đại học ở các nước. Bởi tôi thấy rằng, các đại học không chỉ là nơi đào tạo bậc cao đơn thuần, mà còn phần nào phản ánh lịch sử, văn hóa, tư duy của một vùng đất, hoặc của cả một quốc gia – dân tộc. Chả thế mà du khách nườm nượp đổ về tham quan các đại học nổi tiếng thế giới như Oxford, Cambridge (Anh), Harvard (Mỹ), Thanh Hoa, Bắc Kinh, Hạ Môn (Trung Quốc),…
Ở Lublin, tôi đã ghé qua Đại học Maria Curie-Sklodowska (UMCS) và Đại học Công giáo John Paul II (KUL). Được thành lập năm 1944, UMSC là trường định hướng nghiên cứu, được đặt theo tên của nhà nữ khoa học lừng danh Ba Lan. Khuôn viên của UMSC rất rộng và hiện đại, bao gồm 12 khoa, đào tạo 90 ngành với 16.000 sinh viên. Là Đại học tổng hợp có chất lượng tốt nhất ở miền Đông Ba Lan, UMSC thu hút 1.600 sinh viên quốc tế theo học, chủ yếu đến từ Liên minh châu Âu, ngoài ra còn có sinh viên từ châu Phi, châu Á và quốc tế, tạo nên một môi trường học tập năng động.
Trong khi đó, KUL - thành lập từ năm 1918 - lại có sự thâm trầm, uy nghiêm của một trường Công giáo. Trường gắn với tên của Giáo hoàng John Paul II, người từng dạy ở KUL từ năm 1954 đến khi được bầu làm người đứng đầu Giáo hội năm 1978. Trải qua nhiều thăng trầm liên quan đến bối cảnh chính trị tại Trung Đông Âu, KUL vẫn tự hào là nơi ươm mầm cho những tri thức phụng sự nhân loại, cho tư duy tự do, bất kể trong hoàn cảnh nào.
Hai ngôi trường phản ánh phần nào đặc trưng văn hóa của đất nước Ba Lan. Đó là một quốc gia có truyền thống chú trọng nghiên cứu khoa học, nghệ thuật với những tên tuổi lẫy lừng như Nicolaus Copernicus, Frederic Chopin…, đồng thời nổi tiếng là mộ đạo. Theo thống kê, hơn 90% người dân Ba Lan theo Kitô giáo. Thực tế này bắt nguồn từ lịch sử, khi Vua Mieszko I được rửa tội vào năm 966, đánh dấu sự khởi đầu của Công giáo ở Ba Lan.
Trung tâm của tôn giáo
Quốc gia Trung Âu cũng là quê hương của nhiều nhân vật Kitô giáo nổi tiếng như Giáo hoàng John Paul II, Thánh Faustina Kowalska và Thánh Maximilian Kolbe.
Vậy nên thật dễ hiểu khi người ta có thể thấy hàng vạn nhà thờ lớn nhỏ trên khắp đất nước Ba Lan. Lublin cũng không ngoại lệ, trong đó có hai nhà thờ nổi tiếng nhất là Nhà thờ Thánh Stanislaus và Nhà thờ Thánh John, đều nằm trong khu phố cổ.
Nhà thờ Thánh Stanislaus là một công trình kiến trúc Gothic tuyệt đẹp, được xây dựng từ thế kỷ XIV, nội thất nổi bật với các bức tranh tường và tác phẩm điêu khắc tinh xảo. Địa điểm này đặc biệt nổi tiếng vì là nơi lưu trữ một phần Thánh giá (Holy Cross). Theo truyền thuyết, mảnh Thánh giá linh thiêng này đã giúp thành phố tránh bị thiêu rụi vào năm 1719. Đáng tiếc, vào năm 1919, kẻ gian đã đột nhập vào nhà thờ và lấy đi thánh tích này, đến nay vẫn chưa tìm thấy.
Ở một khía cạnh khác, sẽ là thiếu sót nếu đến Lublin mà không tìm hiểu lịch sử của người Do Thái cũng như Do Thái giáo (Judaism) trên vùng đất này.
Văn hóa Do Thái đã phát triển thăng hoa ở Lublin trong nhiều thế kỷ, đến mức người ta gọi Lublin là “Jerusalem của Vương quốc Ba Lan”, hay “Oxford của người Do Thái”. Tính đến năm 1931, 34% dân số Lublin lúc đó – khoảng gần 40.000 cư dân – là người Do Thái. Ở trung tâm thành phố, du khách có thể tham quan một số di tích liên quan đến người Do Thái như Cổng Grodzka, nhà nguyện Chevra Nosim…
Tác giả tại khu phố cổ Lublin, Ba Lan. (Ảnh TGCC)
Những trang sử buồn
Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ ở Lublin, người Do Thái cũng đã có những giai đoạn hết sức khó khăn ngay tại mảnh đất này. Để thực sự cảm nhận được những trang sử đen tối và đau thương, tôi phải tìm đến Trại tập trung Majdanek – nằm cách phố cổ Lublin khoảng 10km.
Quân đội phát xít Đức đã lập ra Trại Majdanek năm 1941 với mục tiêu ban đầu là ép buộc người dân Ba Lan lao động phục vụ cho nước Đức. Thế nhưng dần về sau, nơi đây được sử dụng để giết hại các tù nhân, một phần trong Chiến dịch Reinhard nhằm diệt chủng người Do Thái. Đến tháng 7/1944, Trại được Hồng quân Liên Xô giải phóng. Tại địa ngục trần gian này đã có khoảng 80.000 dân thường vô tội phải bỏ mạng.
Tôi đến Majdanek khi trời đã về chiều. Cỏ lau mọc ngút ngàn trải dài tít tắp, tiếng quạ kêu càng khiến không gian thêm quạnh quẽ, thê lương. Khu trại ngày nay được chính phủ Ba Lan gìn giữ khá nguyên vẹn và trở thành bảo tàng quốc gia. Khi bước vào mỗi khu nhà, tôi đều cảm thấy rùng mình khi chứng kiến những thứ còn lại của tù nhân ngày xưa như chiếc giường rơm không thể nào đủ ấm trong những ngày rét, những chiếc giày trẻ em thấm máu, khu lò thiêu… Không gian trưng bày khiến du khách cảm nhận mọi thứ như vừa mới diễn ra hôm qua.
Trên con đường chạy dọc theo Trại Majdanek, tôi chú ý đến một dòng chữ bằng tiếng Ba Lan, dịch ra là “Cái chết ở đây”. Đúng vậy, ở đây, sự sống là điều xa xỉ. Madjanek đồng nghĩa với những đòn tra tấn kinh hoàng, những cuộc hành quyết vô nhân đạo. Nhưng Majdanek cũng là nơi giúp mọi người suy nghĩ sâu hơn về giá trị con người, tình thương và sự tự do.
Giữa bức tranh đen tối của thời kỳ diệt chủng Holocaust, những câu chuyện về nghị lực của tù nhân tại Majdanek là tia sáng mong manh nhưng lấp lánh. Rời Trại Majdanek mà tâm trạng chùng xuống, tôi chợt nghĩ đúng là khi chúng ta nhìn thật sâu vào lịch sử, những trang sử buồn cũng có vẻ đẹp riêng của chúng.
Quang Chinh
Nguồn TG&VN : https://baoquocte.vn/lublin-mot-thoang-mien-dong-ba-lan-323760.html