Theo Tổng cục Thống kê, Việt Nam có hơn 90.000 tàu cá đang hoạt động, sản lượng khai thác biển duy trì 3,6-3,7 triệu tấn/năm; kim ngạch xuất khẩu hải sản năm ngoái hơn 4 tỉ đô la, riêng cá ngừ gần 1 tỉ đô la, nhóm mực và bạch tuộc hơn 650 triệu đô la và Mỹ là thị trường lớn thứ hai, chiếm gần 17% thị phần.
Mới đây, Mỹ thông báo có 12 nghề cá của Việt Nam “không tương đương” theo Đạo luật Bảo vệ Thú có vú biển (MMPA), đồng nghĩa sản phẩm từ 12 nghề này như cá ngừ, cua ghẹ, mực nang… không được xuất khẩu vào Mỹ từ đầu năm tới.
Ngành nông nghiệp cho biết trong 90.000 ghe thuyền của ngư dân có tới 36% dùng lưới rê làm ngư cụ chính. Ở một số địa phương, khai thác bằng lưới rê chiếm tới gần 80% sản lượng hải sản. Lưới rê phổ biến khắp nơi, từ khơi xa, vùng lộng và ven bờ, với nhiều biến thể: rê đáy, rê tầng giữa, rê nổi.
Danh sách 12 nghề cá “không tương đương” mà phía Mỹ công bố đầu tháng 9 này phản ánh điều đó. Từ nghề cá mã 2932 (đánh bắt cá mú bằng lưới rê, lưới kéo đáy), mã 2991 (cá nục heo bằng lưới rê, câu vàng) đến 3057 (cá nổi, cá ngừ bằng lưới rê) hay 13124 (cá ngừ mắt to, ngừ vằn, ngừ vây vàng bằng lưới rê tầng giữa, lưới vây mặt nước)… hầu hết đều “có bóng dáng” lưới rê.
Đây là nhóm ngư cụ mà Mỹ và nhiều nước phát triển xếp vào loại rủi ro cao đối với thú có vú ở biển. Nghề nào chưa chứng minh được mức bảo vệ tương đương sẽ bị xếp “không tương đương” và đối diện nguy cơ cấm xuất khẩu.
Sợi lưới rê mảnh, có ghe thả lưới kéo dài hàng cây số, “tàng hình” trong nước khiến cá heo, cá voi nhỏ, rùa biển dễ mắc phải. Khi mắc, chúng khó trồi lên thở và có thể chết ngạt chỉ sau vài phút.
Theo ước tính của Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO), lưới rê là nguyên nhân chính gây ra hàng trăm ngàn ca bycatch thú có vú ở biển mỗi năm trên toàn cầu. Bycatch được hiểu sản phẩm đánh bắt ngoài ý muốn, tức các loài bị mắc lưới nhưng không phải đối tượng ngư dân muốn khai thác. Đây cũng là lý do Mỹ buộc các quốc gia xuất khẩu hải sản vào nước này phải có biện pháp giảm bycatch tương đương nghề cá nội địa của Mỹ.
Ở Việt Nam, lưới rê tồn tại vì giá rẻ, dễ vận hành, đa dụng. Nhiều ngư dân đánh bắt cá thu, cá ngừ, tôm hùm… đều quen lưới rê. Việc “đổi nghề” không đơn giản nhưng không phải không có lối ra. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy có thể giảm chiều dài lưới, giảm kích thước mắt lưới hoặc thay đổi thời gian, khu vực thả lưới để tránh vùng có thú biển; lắp thiết bị xua đuổi âm thanh giúp thú có vú biển nhận biết và tránh xa; tăng quan sát viên độc lập hoặc thiết bị giám sát trên tàu để ghi nhận bycatch, minh bạch số liệu.
Một số địa phương miền Trung từng thử nghiệm lắp thiết bị xua đuổi âm thanh hay khuyến khích nghề câu thay cho lưới rê để đánh bắt cá ngừ. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa có chương trình quy mô quốc gia cũng chưa có cơ chế tài chính hỗ trợ ngư dân chuyển đổi hoặc cải tiến ngư cụ.
Trong bối cảnh xuất khẩu hải sản sang Mỹ đạt hơn 700 triệu đô la năm ngoái, rủi ro bị hạn chế thị trường từ đầu năm tới là lời nhắc mạnh mẽ. Nếu không sớm thay đổi thì ngư dân có thể mất kế sinh nhai trước khi kịp đổi nghề, doanh nghiệp mất thị trường.
Ngược lại, nếu ngư dân, doanh nghiệp và Chính phủ chủ động đầu tư cải tiến ngư cụ, quản lý bycatch minh bạch thì Việt Nam vừa bảo vệ sinh thái biển vừa có thể duy trì thị trường xuất khẩu khi nhiều quốc gia phát triển cũng đang áp dụng hạn chế lưới rê như Mỹ.
Hồng Văn