Vùng đất nhiều "duyên nợ"
Sau hội nghị thượng đỉnh giữa ông Tổng thống Mỹ Donald Trump và Tổng thống Nga Vladimir Putin tại Alaska vào ngày 15/8, bên cạnh vấn đề Ukraine, nhà lãnh đạo Nga nhiều lần nhấn mạnh đến "mối quan hệ láng giềng gần gũi" và di sản chung, lịch sử chung giữa Nga và Mỹ.
"Tôi muốn một lần nữa cảm ơn người đồng cấp Mỹ của tôi về đề nghị đến Alaska này. Thật hợp lý khi chúng ta gặp nhau ở đây. Bởi vì hai nước chúng ta, dù bị ngăn cách bởi đại dương, nhưng lại là những người láng giềng gần gũi", ông phát biểu.
Trước khi rời Alaska, ông Putin đã tới viếng mộ các phi công Liên Xô tại Nghĩa trang Quốc gia Fort Richardson.
Cử chỉ này mang ý nghĩa tưởng niệm đồng thời cũng gợi nhắc về mối liên kết lịch sử sâu sắc giữa Nga và Alaska - vùng đất từng thuộc về Nga từ hơn 150 năm trước, trước khi trở thành một phần lãnh thổ của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Tổng thống Nga Vladimir Putin đặt vòng hoa tưởng niệm tại phần mộ các binh sĩ Liên Xô trong Nghĩa trang Quốc gia Fort Richardson, gần thành phố Anchorage, Alaska. Ảnh: Reuters.
Từ “kho vàng” đến gánh nặng
Trước khi trở thành một bang của Mỹ, Alaska từng là một phần lãnh thổ của Nga dưới thời Sa hoàng Alexander II.
Hai nhà thám hiểm người Nga Mikhail Gvozdev và Ivan Fyorodov đã phát hiện ra Alaska trong chuyến thám hiểm trên tàu Svyatoi Gavriil (St. Gabriel) vào năm 1732.
Vào lần khám phá thứ hai năm 1741, đoàn thám hiểm đặt tên cho eo biển phân cách vùng đất theo tên của Vitus Bering, người được Sa hoàng Peter Đại đế cử đi tuyên bố chủ quyền.
Ngày đó, người Nga đổ xô khai thác một mặt hàng rất “được giá” tại Trung Quốc: lông rái cá biển. Họ sử dụng những người Tlingit bản địa để săn rái cá biển và các loài động vật có vú khác để lấy lông.
Năm 1799, Nga thành lập Công ty Nga - Mỹ nhằm hợp pháp hóa hoạt động buôn bán lông thú và quản lý định cư, nhưng việc khai thác quá mức đã nhanh chóng khiến tài nguyên của Alaska dần cạn kiệt.
Đồng thời, những áp lực quốc tế càng khiến Alaska trở thành gánh nặng.
Bản đồ vùng eo biển Bering. Ảnh: Britannica.
Thất bại trong cuộc chiến ở Crimea (1853-1856) đã khiến kinh tế Nga kiệt quệ. Chi phí duy trì tiền đồn tốn kém, số lượng rái cá sụt giảm nghiêm trọng, các bộ lạc Tlingit nhiều lần nổi dậy chống lại người Nga khiến chuỗi cung ứng lương thực bị đe dọa. Sau một thế kỷ khai thác triệt để, Alaska đã trở thành gánh nặng mới của Nga.
Trong thời điểm đó, thương mại Nga và Mỹ đang phát triển mạnh, cùng lúc, họ tìm được mối nghi ngại chung: nước Anh, từng là thực dân của Mỹ.
Trong khi giới lãnh đạo Nga dần hướng mắt về châu Á, họ coi Alaska là vùng đất xa xôi khó phòng thủ. Nhà sử học Lee Farrow, Đại học Auburn, cho rằng cuộc chiến Crimea đã khiến Nga lo sợ Anh có thể lợi dụng Bắc Mỹ để tấn công.
Theo Smithsonian, người Mỹ đã nhìn thấy tiềm năng là vàng, lông thú, hải sản… cũng như khả năng mở rộng giao thương với Trung Quốc và Nhật Bản. Họ cũng lo ngại Anh có thể tìm cách thiết lập sự hiện diện trên vùng đất này và việc mua lại Alaska sẽ giúp Mỹ trở thành một cường quốc ở Thái Bình Dương.
“Thương vụ điên rồ của Seward”
Ý tưởng bán Alaska cho Mỹ do Nikolay Muravyov-Amursky, Toàn quyền Đông Siberia, đề xuất cho Sa hoàng Nicholas I vào mùa xuân năm 1853.
Tháng 3/1867, Ngoại trưởng Mỹ William Henry Seward đề xuất mức giá khởi đầu 5 triệu USD với công sứ Nga Eduard Stoeckl. Chỉ hai tuần sau đó, hai bên chốt mức giá 7,2 triệu USD, tương đương 2 xu/mẫu Anh lúc bấy giờ. Ngày 30/3/1867, Hiệp ước Nhượng bộ được ký.
Ngày 18/10/1867, lễ chuyển giao Alaska được tổ chức tại New Arkhangelsk. Thương vụ này đã tăng diện tích lãnh thổ Mỹ thêm hơn 1,7 triệu km2.
Dù Hiệp ước được ký kết nhanh chóng nhưng Quốc hội Mỹ không dễ dàng thông qua ngân sách. Nhiều nghị sĩ phản đối quyết định chi 7,2 triệu USD chỉ để mua một vùng đất băng giá, trong khi tại St. Petersburg, nhiều người chỉ trích Sa hoàng Aleksandr II đã bán với mức giá quá rẻ.
Tấm séc trị giá 7,2 triệu USD của kho bạc Mỹ đã chính thức xác nhận việc mua lại Alaska (1867). Ảnh: National Archives.
Báo chí Mỹ khi đó gọi thương vụ này là “sự điên rồ của Seward”. Tờ New York Tribune viết: “Không có chiến thắng ngoại giao nào khi chấp nhận mua Alaska cả”.
Phía Nga, tờ báo Golos mô tả việc bán Alaska gây ra sự phẫn nộ mạnh mẽ với tất cả người Nga chân chính.
“Liệu niềm tự hào dân tộc có đáng hy sinh chỉ vì 6-7 triệu USD không?”, tờ báo viết.
Dù vậy Thượng viện Mỹ vẫn phê duyệt hiệp ước. Ban đầu, việc định cư ở Alaska diễn ra chậm chạp, đến năm 1884 thì chính quyền dân sự mới được thành lập.
Phải tới “cơn sốt vàng” ở Klondike, Alaska mới thu hút dòng người đổ đến tìm vàng. Người Mỹ cũng khám phá được các mỏ dầu lớn ở Alaska vào đầu thế kỷ 20.
Vị trí địa chiến lược quan trọng
Bước sang thời kỳ Chiến tranh Lạnh, người Mỹ gọi nơi đây là “người bảo vệ phương Bắc” và “vỏ bọc hàng đầu cho nước Mỹ” bởi khoảng cách địa chiến lược với Liên Xô qua eo biển Bering.
Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower từng lo ngại rằng việc nâng Alaska lên thành tiểu bang có thể kéo nước Mỹ lại gần kẻ thù. Dù vậy, ngày 7/7/1958, ông ký ban hành luật công nhận Alaska và ngày 3/1/1959, Alaska chính thức trở thành bang thứ 49 của Mỹ.
Hiện nay, Alaska vừa mang lại lợi ích kinh tế vừa giữ vai trò địa chiến lược quan trọng, giúp Mỹ củng cố thế trận tại “điểm nóng” Bắc Cực.
Căn cứ Liên hợp Elmendorf-Richardson của Mỹ tại Alaska. Ảnh: Reuters.
Theo báo cáo của Smithsonian năm 2017, Alaska đã sản xuất “hàng trăm tỷ USD từ dầu cá voi, lông thú, đồng, vàng, gỗ, cá, bạch kim, kẽm, chì và dầu mỏ” trong suốt nhiều thập kỷ.
Gần đây, trang tin quân sự Army Recognition dẫn thông báo từ Bộ Tư lệnh Phương Bắc Mỹ cho biết, một khinh khí cầu tầm cao đã được phóng thành công từ Căn cứ Liên hợp Elmendorf-Richardson trong khuôn khổ cuộc tập trận quy mô lớn ARCTIC EDGE 2025. Đây được xem là bước đi nhằm tăng cường năng lực phòng thủ chiến lược tại khu vực.
Động thái trên diễn ra trong bối cảnh Bắc Cực ngày càng bị quân sự hóa, không chỉ vì sở hữu trữ lượng dầu khí khổng lồ mà còn do sự xuất hiện của những tuyến hàng hải mới khi băng tan.
Nguyễn An