Toàn cảnh bản Lô Lô đen nằm bên sườn đồi thơ mộng. Ảnh: Văn Tiệp
Người Lô Lô đen ở Khuổi Khon đón khách bằng nụ cười hiền hậu và cái vẫy tay thân tình như người quen lâu ngày trở về. Bản Khuổi Khon nhỏ bé nhưng ấm áp như một bức tranh quê hiền hòa. Dưới sân đất nâu đỏ, mấy đứa trẻ tóc cháy nắng ríu rít chơi đánh cù, từng vòng cù xoay tít, chạm vào nhau phát ra tiếng "cạch cạch" giòn giã, hòa cùng những tràng cười trong trẻo khiến không gian thêm rộn rã. Tiếng cười ấy vang vọng qua từng mái nhà, lẫn trong tiếng gà gáy, tiếng chó sủa xa xa, tạo nên một bản hợp âm vui tươi của cuộc sống nơi miền sơn cước.
Phía đầu ngõ, vài người phụ nữ lom khom bên chiếc mẹt tre, bàn tay thoăn thoắt sảy từng hạt gạo trắng, tiếng sột soạt, lạo xạo quen thuộc nghe như một khúc nhạc đồng quê mộc mạc. Gió từ triền núi thổi về, đưa theo hương lúa mới, hương ngô phơi vàng bên hiên, quyện lẫn trong hương khói bếp chiều làm cho không gian thêm đầm ấm. Nụ cười hiền của những người mẹ, người chị, xen kẽ câu chuyện rì rầm về mùa màng, về con trẻ, khiến cảnh lao động thường ngày trở nên vừa rộn rã, vừa bình yên.
Xa xa, nơi mạch nước chung của bản, mấy người phụ nữ đang giặt áo, từng cánh tay thoăn thoắt vỗ xuống dòng suối trong vắt, tiếng vải đập chan chát hòa cùng tiếng nước róc rách nghe vừa rộn ràng, vừa thân thuộc. Lũ trẻ con theo mẹ, đứa thì nghịch nước, đứa thì vốc cá con trong làn suối, rồi té nhau loang loáng, tiếng reo hò vang vọng cả góc rừng. Ánh nắng chiều xiên qua kẽ lá, phản chiếu lên mặt nước long lanh như dát bạc, làm khung cảnh thêm phần huyền ảo, sống động. Cảnh đời thường mộc mạc ấy không chỉ đem lại cảm giác gần gũi, mà còn như một liều thuốc xua tan bao mệt nhọc của đường xa. Bước chân lữ khách dừng lại nơi đây chợt thấy lòng nhẹ nhõm, bởi sự giản dị và chân thành của cuộc sống bản làng đã gợi về một miền ký ức quê hương quen thuộc, nơi con người và thiên nhiên hòa quyện trong một nhịp sống yên bình, chan chứa tình người.
Trong căn nhà sàn đơn sơ nép mình bên sườn núi, bếp lửa bập bùng cháy đỏ, tỏa ra làn khói mỏng vương vấn mùi thơm nồng nàn của nếp nương. Người phụ nữ Lô Lô với đôi bàn tay thoăn thoắt, khéo léo gói cơm vào lá chuối đã hơ mềm trên bếp. Từng nắm cơm tròn xinh, trắng ngần, được bao bọc bởi lớp lá xanh mướt, vừa gọn gàng, vừa đẹp mắt. Hơi ấm từ hạt gạo quyện với mùi thơm dìu dịu của lá chuối tạo nên hương vị mộc mạc nhưng đầy sức sống, gợi nhớ về truyền thống lâu đời của bao thế hệ.
Người Lô Lô gói cơm bằng lá cây vả rất mộc mạc. Ảnh: Văn Tiệp
Ngoài hiên nhà, trong làn gió núi mát lành, một người đàn ông Lô Lô đang lúi húi hái những chiếc lá vả to bản, gọi là “vịa phá”. Ông lựa từng chiếc lá lành, rộng và chắc, đặt ngay ngắn thành từng chồng. Thấy khách nhìn, ông nở nụ cười hiền hậu, ánh mắt ánh lên niềm tự hào, rồi cất giọng mộc mạc: “Người Lô Lô mình lấy lá này làm mâm bát. Lá to, dày và thơm, ăn xong bỏ ra vườn là tự mục đi, chẳng để lại rác rưởi gì. Vừa sạch sẽ, vừa thuận tự nhiên, lại giữ được hồn quê”.
Những chiếc lá vả mộc mạc ấy, dưới bàn tay khéo léo của đồng bào, biến thành mâm, thành đĩa, thành bát ăn cơm giản dị mà đậm đà bản sắc. Chúng như một minh chứng sống động cho cách sống hài hòa với thiên nhiên của người Lô Lô - biết tận dụng những gì sẵn có, không phung phí, không để lại gánh nặng cho đất trời. Giữa cuộc sống hiện đại, nhiều vật dụng tiện lợi nhưng khó phân hủy, cách làm ấy càng gợi lên một triết lý sống bền vững, giản dị mà sâu sắc.
Chẳng mấy chốc, mâm cơm đã được bày xong. Không bàn gỗ, không mâm đồng, chỉ một tấm lá vả trải rộng trên sàn. Thịt bò xào măng nứa giòn sần sật, dậy hương núi rừng. Thịt lợn luộc thái vừa miếng, còn bốc khói. Và món hoa chuối luộc trong nước thịt - vị bùi ngọt quyện chút béo ngậy, giản dị mà ngon đến lạ. Tất cả được xếp gọn gàng trên lá, tinh tế nhưng vẫn gần gũi, tự nhiên. Ngồi bên mâm cơm, tôi hỏi ông Chi Viết Hải, người có uy tín trong bản về phong tục gói cơm, dùng lá cây thay bát đĩa. Ông chậm rãi kể: “Ngày xưa khó khăn lắm, mâm bát có đâu. Nhà nào có việc, khách đông, mượn nhau cũng phiền. Cha ông mới nghĩ ra cách lấy lá rừng thay mâm. Vừa tiện, vừa sạch, chẳng làm phiền ai. Ăn xong thì lá trả lại cho đất, không hại gì núi rừng”. Nghe ông kể, tôi mới hiểu: bữa cơm gói lá không chỉ là thói quen, mà còn là một cách ứng xử với thiên nhiên. Người Lô Lô biết tận dụng những gì rừng núi ban tặng, sống giản dị mà trọn vẹn. Trong những dịp cúng lễ, họ còn đan nan tre thành mâm tròn, buộc bó đũa bằng lạt tre, tỉ mỉ, trang trọng gửi gắm lòng thành kính với tổ tiên.
Bữa cơm gói lá ở Khuổi Khon không chỉ lấp đầy cái bụng kẻ lữ hành đường xa, mà còn để lại dư vị khó quên trong tâm trí. Nó nhắc tôi rằng, giữa đời sống hôm nay, khi tiện nghi hiện đại phủ khắp, đôi khi chúng ta quên mất những giá trị giản dị. Người Lô Lô đen đã giữ được điều ấy sống hòa hợp với thiên nhiên, trân trọng cái mộc mạc và dùng sự tinh tế để thể hiện tấm lòng với khách.
Văn Tiệp