Mang Internet đến với trường học - mở rộng công bằng giáo dục và thu hẹp khoảng cách số

Mang Internet đến với trường học - mở rộng công bằng giáo dục và thu hẹp khoảng cách số
một giờ trướcBài gốc
Ở nhiều vùng miền núi, câu chuyện học sinh “chưa từng thấy lớp học trực tuyến là gì” từng diễn ra phổ biến. Tại một điểm trường ở Hà Giang, thầy cô phải mang USB xuống tận thị xã để tải video phục vụ giảng dạy. Cô giáo Lò Thị M. ở huyện Đồng Văn cho biết: “Muốn cho học sinh xem một đoạn phim khoa học, tôi phải nhờ người quen tải giúp”. Trong bối cảnh năm 2008 chỉ hơn 24% dân số có cơ hội tiếp cận Internet, những câu chuyện ấy phản ánh rõ khoảng cách số còn rất lớn giữa các vùng miền.
Dự án Internet Trường học ra đời, được xác định là bước đi mang tính nền tảng trong tiến trình chuyển đổi số giáo dục. (Ảnh: Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội - Viettel)
Những hạn chế đó cũng từng được các chuyên gia giáo dục cảnh báo. Tiến sĩ Tạ Quang Đạo, người có nhiều năm công tác tại hệ thống trường học vùng cao, nhấn mạnh: “Khoảng cách số nếu không được giải quyết kịp thời sẽ trở thành khoảng cách tri thức và cơ hội nghề nghiệp của cả một thế hệ”. Đó cũng là lý do Dự án Internet Trường học ra đời, được xác định là bước đi mang tính nền tảng trong tiến trình chuyển đổi số giáo dục.
Từ năm 2008, Dự án Internet Trường học do Viettel phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai đã đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chiến lược phát triển giáo dục và quá trình chuyển đổi số quốc gia.
Trước khi dự án triển khai, năm học 2008-2009 vẫn còn 17.000 trong tổng số 27.500 trường học chưa được nối Internet, chiếm gần 62%. Điều này khiến hàng triệu học sinh ở các khu vực khó khăn không có điều kiện tiếp cận học liệu trực tuyến hay phương pháp giáo dục hiện đại. Hạ tầng công nghệ thông tin thiếu thốn, năng lực ứng dụng công nghệ của giáo viên còn hạn chế, việc dạy-học dựa trên tài nguyên số trở thành thách thức ngay cả ở những nơi đã có kết nối. Vì vậy, giải pháp thu hẹp khoảng cách số không thể chỉ dừng ở việc kéo cáp đến trường, mà còn phải đồng thời xây dựng năng lực số cho đội ngũ giáo viên và học sinh.
Viettel đầu tư đồng bộ mạng cáp quang, hệ thống 4G/5G và các giải pháp mạng không dây, bảo đảm chất lượng kết nối ổn định ngay cả tại những khu vực địa hình phức tạp. (Ảnh: Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel))
Dự án Internet Trường học được xây dựng theo hướng tổng thể, vừa phát triển hạ tầng, vừa kiến tạo hệ sinh thái giáo dục số, đồng thời nâng cao năng lực sử dụng công nghệ cho đội ngũ sư phạm. Đây là cách tiếp cận toàn diện, phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục trong thời đại số.
Về hạ tầng, Viettel đầu tư đồng bộ mạng cáp quang, hệ thống 4G/5G và các giải pháp mạng không dây, bảo đảm chất lượng kết nối ổn định ngay cả tại những khu vực địa hình phức tạp. Đường truyền thuê riêng cho cơ sở giáo dục giúp thầy cô và học sinh tiếp cận học liệu số nhanh chóng, tạo điều kiện đưa các mô hình dạy-học hiện đại vào nhà trường. Việc “quang hóa” hơn 96% số xã đã tạo nền tảng rộng lớn cho giáo dục trực tuyến phát triển.
Đi đôi với kết nối, hệ sinh thái giáo dục số gồm ViettelStudy, K12Online, EduPortal và SmartLMS được phát triển như bộ công cụ hỗ trợ dạy-học toàn diện. Các nền tảng này cung cấp kho bài giảng số, tài liệu học tập phong phú, khóa học ngoại ngữ, công cụ kiểm tra-đánh giá trực tuyến và chương trình đào tạo kỹ năng số. Không chỉ là nguồn học liệu cho học sinh, các nền tảng còn giúp giáo viên phát triển năng lực công nghệ, cải thiện phương pháp giảng dạy và thiết kế bài giảng điện tử hiệu quả hơn.
• Với những nỗ lực không ngừng nghỉ, tính đến nay, dự án “Internet trường học” đã giúp 25 triệu giáo viên, học sinh, sinh viên tiếp cận Internet.
• Năm học 2008-2009: còn 17.000/27.500 trường chưa có Internet (62%). Chỉ sau 2 năm (2008-2010), Việt Nam trở thành một trong số ít quốc gia có 100% cơ sở giáo dục được kết nối Internet.
• Việt Nam nhiều năm liền nằm trong nhóm 20 quốc gia có số người dùng Internet lớn nhất thế giới (theo VNNIC và Internet World Stats). Trong giai đoạn 2011-2013, số người dùng Internet đạt khoảng 34 triệu.
• Trong giai đoạn 2005-2024, tỷ lệ người dân sử dụng Internet tại Việt Nam tăng mạnh từ khoảng 15% lên gần 85%. Chương trình “Internet Trường học” là một trong những sáng kiến quan trọng góp phần mở rộng cơ hội tiếp cận Internet trong lĩnh vực giáo dục.
Một điểm đáng chú ý của dự án là việc ứng dụng dữ liệu lớn để theo dõi tiến trình học tập và đánh giá hiệu quả giáo dục. Khi dữ liệu được phân tích chính xác, nhà trường có thể điều chỉnh nội dung giảng dạy phù hợp với từng nhóm học sinh, góp phần cá thể hóa việc học. Đây là xu hướng chung của giáo dục hiện đại, trong đó mô hình học tập thích ứng (adaptive learning) đang ngày càng phổ biến.
Các em học sinh vùng cao được tiếp cận với Internet. (Ảnh: Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội - Viettel)
Sau hơn 15 năm triển khai, tính đến năm 2024, Dự án Internet Trường học đã mang Internet cáp quang miễn phí cho hơn 38.000 cơ sở giáo dục trên cả nước (tương đương gần 40.000 trường học), chiếm khoảng 92% tổng số trường trên cả nước. Khoảng 25 triệu học sinh, sinh viên, giáo viên được tiếp cận với tài nguyên học tập trực tuyến, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ không chỉ trong ngành giáo dục mà trong toàn xã hội.
Khoảng 25 triệu học sinh, sinh viên, giáo viên được tiếp cận với tài nguyên học tập trực tuyến, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ không chỉ trong ngành giáo dục mà trong toàn xã hội. (Ảnh: Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội - Viettel)
Giá trị của dự án không dừng lại ở phạm vi quốc gia. Nhờ tài liệu triển khai bài bản, mô hình đã được Viettel nhân rộng tại 10 quốc gia khác như Lào, Campuchia, Mozambique, Peru… Những quốc gia này đều có điều kiện phát triển tương đồng và gặp thách thức về hạ tầng giáo dục. Ông Trần Anh Tuấn, Trưởng ban Tư vấn pháp luật và thông tin truyền thông (Viện Kinh tế và Pháp luật quốc tế) đánh giá: “Điểm mạnh của mô hình Internet Trường học Việt Nam nằm ở chỗ không chỉ chuyển giao công nghệ, mà còn điều chỉnh để phù hợp với văn hóa và môi trường giáo dục địa phương”.
Điểm mạnh của mô hình Internet Trường học Việt Nam nằm ở chỗ không chỉ chuyển giao công nghệ, mà còn điều chỉnh để phù hợp với văn hóa và môi trường giáo dục địa phương.
Ông Trần Anh Tuấn, Trưởng ban Tư vấn pháp luật và thông tin truyền thông (Viện Kinh tế và Pháp luật quốc tế)
Tính bền vững của dự án được thể hiện ở cách tổ chức nguồn lực. Với chi phí khoảng 132 tỷ đồng mỗi năm và tổng chi gần 2.000 tỷ đồng sau 15 năm, dự án duy trì ổn định, lâu dài, không gián đoạn. Sự kết hợp giữa chiến lược chuyển đổi số quốc gia và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp giúp mô hình vừa có tính định hướng, vừa có tính thực thi cao.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, ý nghĩa sâu sắc nhất của dự án nằm ở việc mở rộng cơ hội tiếp cận tri thức cho học sinh vùng khó khăn. Khi một học sinh miền núi có thể tham gia lớp học trực tuyến như học sinh thành thị, khi giáo viên vùng sâu có thể truy cập kho học liệu số như đồng nghiệp trong đô thị, đó chính là bình đẳng trong tiếp cận tri thức - nền tảng quan trọng để chuẩn bị nguồn nhân lực cho tương lai, đặc biệt trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra yêu cầu cao về kỹ năng công nghệ.
Trung tướng Tào Đức Thắng, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Viettel, từng khẳng định: "Với sứ mệnh phổ cập internet, Viettel kết nối băng siêu rộng bằng cáp quang cho tất cả các trường học, tạo điều kiện cho các ứng dụng dạy và học bùng nổ. Không chỉ cung cấp hạ tầng kết nối, Viettel có trách nhiệm nghiên cứu, phát triển các công nghệ phục vụ ngành giáo dục, cung cấp các ứng dụng, nội dung, triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục, triển khai hệ thống giáo dục điện tử…".
Internet Trường học khẳng định rằng chuyển đổi số phải bắt đầu từ giáo dục, từ con người, từ lớp học. Dự án cho thấy sự phối hợp hiệu quả giữa Nhà nước và doanh nghiệp trong thực hiện mục tiêu chiến lược, nhất là trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Hành trình đưa Internet đến từng trường học không chỉ là nỗ lực mà còn là bước đi mang ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc, thể hiện cam kết của Việt Nam đối với một nền giáo dục mở, bình đẳng và hướng tới tương lai.
Khi một học sinh vùng sâu có thể chạm tới tri thức như học sinh thành thị, đó không chỉ là thành công của một dự án, mà là thành công của một chiến lược phát triển đất nước.
Khi một học sinh miền núi có thể tham gia lớp học trực tuyến như học sinh thành thị, khi giáo viên vùng sâu có thể truy cập kho học liệu số như đồng nghiệp trong đô thị, đó chính là bình đẳng trong tiếp cận tri thức. (Ảnh: Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội - Viettel)
THÙY LINH
Nguồn Nhân Dân : https://nhandan.vn/mang-internet-den-voi-truong-hoc-mo-rong-cong-bang-giao-duc-va-thu-hep-khoang-cach-so-post925925.html