BƯỚC NGOẶT QUAN TRỌNG CỦA LỊCH SỬ DÂN TỘC
Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 2-9-1945. Tuy nhiên, ngay sau đó, chính quyền cách mạng non trẻ đã phải đối mặt với hàng loạt khó khăn, thách thức nghiêm trọng trong sự nghiệp bảo vệ nền độc lập và xây dựng đất nước.
Toàn văn Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh: tư liệu
Trong nước, nạn đói, nạn mù chữ và các hoạt động chống phá của các thế lực phản động diễn biến phức tạp.
Ngoài nước, các thế lực xâm lược ráo riết thực hiện âm mưu quay trở lại xâm chiếm nước ta. Trước sự bao vây của “giặc đói”, “giặc dốt” và “giặc ngoại xâm”, vận mệnh dân tộc bị đẩy vào tình thế hết sức hiểm nghèo, như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Mặc dù Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì theo đuổi giải pháp hòa bình thông qua các thỏa thuận như: Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946, song thiện chí đó không được thực dân Pháp tôn trọng.
Cuối năm 1946, sau khi có thêm viện binh, thực dân Pháp liên tiếp tiến hành các hành động khiêu khích, công khai bộc lộ âm mưu xâm lược, tìm cách tái lập nền thống trị thuộc địa ở Việt Nam.
Tháng 11-1946, quân Pháp ngang nhiên chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12-1946, chúng liên tục sử dụng đại bác, súng cối bắn phá nhiều khu phố, gây thương vong cho dân thường và chiếm giữ một số trụ sở của Chính phủ cách mạng.
Đỉnh điểm là trong 2 ngày 18 và 19-12-1946, thực dân Pháp liên tiếp gửi tối hậu thư, đòi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giải tán lực lượng tự vệ và trao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng.
Trước sự áp bức của kẻ thù, dân tộc Việt Nam bị đặt trước 2 lựa chọn: một là chấp nhận khuất phục, quay trở lại thân phận nô lệ; hai là đứng lên đấu tranh đến cùng để giành độc lập, tự do.
Trong hoàn cảnh đó, Đảng ta, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta không còn con đường nào khác ngoài việc cầm vũ khí đứng lên, phát động cuộc kháng chiến toàn quốc để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được.
Ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Vạn Phúc (Hà Đông) và ra quyết định lịch sử: Phát động Toàn quốc kháng chiến. Ngay trong đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến.
Sáng 20-12-1946, Lời kêu gọi được phát đi khắp cả nước, truyền đi rộng rãi qua sóng phát thanh và truyền đơn, nhanh chóng trở thành mệnh lệnh lịch sử, hiệu triệu toàn dân đứng lên chiến đấu.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân tộc bước vào cuộc kháng chiến chính nghĩa với quyết tâm bảo vệ nền độc lập vừa giành được, kiên định con đường kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh, toàn dân, toàn diện, tạo bước ngoặt quan trọng của lịch sử dân tộc.
Chỉ với 198 từ, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến đã khẳng định rõ ý chí, quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong việc bảo vệ nền độc lập, hòa bình của dân tộc.
“Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!”.
Lời kêu gọi đã khẳng định tinh thần đoàn kết toàn dân, không phân biệt giới tính, tuổi tác, tôn giáo, đảng phái hay dân tộc; đồng thời, kêu gọi mọi người Việt Nam đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, sử dụng mọi phương tiện có thể để chống lại thực dân Pháp, thể hiện quyết tâm sắt đá của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến cứu nước.
“Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
PHÁT HUY TINH THẦN ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy ngắn gọn nhưng thể hiện tinh thần đại đoàn kết toàn dân, phản ánh rõ đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc cùng truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất của Nhân dân Việt Nam.
Hưởng ứng lời kêu gọi, quân và dân các địa phương trong cả nước đồng loạt đứng lên chiến đấu, đoàn kết anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược, chung một ý chí, một nguyện vọng và niềm tin mãnh liệt vào ngày đại thắng của dân tộc.
Dù chỉ có vũ khí thô sơ, với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” và sự giúp đỡ tích cực, đoàn kết chiến đấu của Nhân dân, quân ta kiên cường bám trụ, từng bước làm thất bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp và giáng một đòn mạnh vào ý chí xâm lược của kẻ thù, làm tiền đề vững chắc cho những thắng lợi tiếp theo của cuộc kháng chiến.
Ra đời cách đây 79 năm, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử và tầm vóc thời đại.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Lời kêu gọi không chỉ là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng mà còn cổ vũ toàn dân đoàn kết, đồng lòng bảo vệ độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Đồng thời, khẳng định vai trò trung tâm của Nhân dân, nhấn mạnh sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong mọi hoàn cảnh.
Minh chứng điển hình nhất là nhiều tỉnh, thành trên cả nước, đặc biệt ở Bắc Bộ và Trung Bộ - Tây Nguyên trong thời gian gần đây đã hứng chịu liên tiếp thiên tai, mưa lũ, gây thiệt hại nặng nề về người và của.
Trước tình hình đó, dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, các đơn vị, lực lượng chuyên trách nhanh chóng vào cuộc, tổ chức sơ tán khẩn cấp và hỗ trợ tái thiết cuộc sống sau lũ.
Đồng thời, Nhân dân cả nước đồng lòng chung tay, từ cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp, các nhóm thiện nguyện và thanh niên tình nguyện đến mỗi cá nhân đều ra sức huy động mọi nguồn lực, quyên góp để sẻ chia, ủng hộ đồng bào vùng lũ vượt qua khó khăn.
Thời gian đã trôi qua, “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” vẫn luôn là ngọn lửa soi đường, nhắc nhở mỗi người Việt Nam về trách nhiệm giữ vững độc lập, tự do và bảo vệ Tổ quốc.
Với tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường và niềm tin vững chắc vào tương lai, Nhân dân Đồng Tháp không ngừng phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc, chung tay vượt qua mọi thử thách, góp phần viết nên những trang sử hào hùng, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh và vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình.
LÊ NGUYÊN