Ảnh minh họa
Những đề xuất kiến nghị này được các đại biểu Quốc hội nêu khi thảo luận tại hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp chiều ngày 11/6/2025.
Trong bối cảnh nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chủ đạo, đảm bảo sinh kế cho hơn 60% dân số và đóng vai trò trụ đỡ trong ổn định kinh tế- xã hội, đặc biệt trong các giai đoạn khủng hoảng, việc tiếp tục có chính sách ưu đãi, hỗ trợ thiết thực cho nông dân là điều cần thiết và hết sức cấp bách. Dự thảo nghị quyết về kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2030 là một chủ trương đúng đắn, thể hiện sự quan tâm nhất quán của Quốc hội và Chính phủ với phát triển nông nghiệp, nông thôn và đời sống của người nông dân.
CHÍNH SÁCH MIỄN THUẾ CẦN GẮN CHẶT VỚI ĐIỀU KIỆN SỬ DỤNG ĐẤT HIỆU QUẢ
Theo đại biểu Thạch Phước Bình, đoàn Trà Vinh, thực tế cho thấy chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đã phát huy nhiều tác dụng tích cực trong suốt hơn 2 thập kỷ qua. Cụ thể, theo số liệu đến năm 2023 cả nước có hơn 10 triệu hộ dân được hưởng lợi từ chính sách này với diện tích miễn thuế lên đến 10 triệu hecta, ước tính mỗi năm ngân sách miễn từ 7.000- 8.000 tỷ đồng tiền thuế, đổi lại là giá trị sản lượng nông nghiệp tăng trưởng, ổn định an ninh lương thực, cải thiện thu nhập cho nông dân và hỗ trợ tích cực cho chương trình xây dựng nông thôn mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận, đại biểu cho rằng dự thảo nghị quyết lần này cần được nhìn nhận một cách toàn diện hơn để phát huy hiệu quả bền vững, khắc phục một số bất cập đã tồn tại trong chính sách hiện hành.
Thứ nhất, hiện nay việc áp dụng chính sách miễn thuế vẫn còn mang tính đại trà, chưa có sự phân loại rõ ràng giữa các nhóm đối tượng hộ nông dân sản xuất nhỏ, hợp tác xã hoạt động thực tế, các doanh nghiệp lớn hoặc cá nhân sở hữu đất nhưng không trực tiếp sản xuất, cho thuê lại đất…đều được miễn thuế như nhau.
“Điều này dẫn đến sự thiếu công bằng, gây thất thu ngân sách và dễ bị lợi dụng. Vì vậy, cần thiết phải phân tầng chính sách như miễn toàn bộ cho người trực tiếp sản xuất, giảm hoặc giữ nguyên mức thuế cho các tổ chức, cá nhân không sản xuất thực tế hoặc không có hoạt động canh tác hiệu quả”, đại biểu nói.
Đại biểu Thạch Phước Bình, đoàn Trà Vinh.
Thứ hai, chính sách miễn thuế hiện nay chưa gắn chặt với điều kiện sử dụng đất hiệu quả. Việc miễn thuế cần phải đi kèm ràng buộc như không bỏ hoang đất quá 12 tháng, sử dụng đúng mục đích, có hợp đồng rõ ràng nếu cho thuê lại, bảo vệ môi trường đất và tài nguyên sinh thái, những điều kiện này là cần thiết để tránh tình trạng ôm đất chờ thời, đất không sản xuất vẫn được hưởng ưu đãi, gây lãng phí nguồn lực quốc gia.
Thứ ba, một điểm đáng lưu ý là dự thảo chưa đề cập đến việc tích hợp chính sách miễn thuế với các chương trình hỗ trợ sản xuất nông nghiệp hiện hành. Chính sách thuế nên được xem như là một phần trong hệ sinh thái hỗ trợ nông nghiệp, bao gồm tín dụng ưu đãi, đào tạo kỹ thuật, bảo hiểm mùa vụ, phát triển chuỗi giá trị và ứng dụng khoa học, công nghệ. Khi kết nối chính sách thuế với các hỗ trợ khác, người nông dân sẽ có động lực mạnh hơn trong đầu tư sản xuất và hiệu quả sử dụng đất được nâng cao rõ rệt.
Thứ tư, để đảm bảo chính sách miễn thuế không trở thành hình thức, cần có cơ chế giám sát chặt chẽ và minh bạch. Đại biểu Bình đề xuất Quốc hội giao Chính phủ xây dựng cơ sở dữ liệu giám sát việc thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp với báo cáo đánh giá định kỳ 2 năm một lần. Các chỉ tiêu đánh giá có thể bao gồm số lượng đối tượng được miễn thuế, tình trạng sử dụng đất, hiệu quả kinh tế và mức độ thất thu ngân sách, các địa phương cần có trách nhiệm cập nhật, báo cáo và giải trình khi có sai lệch hoặc lạm dụng chính sách.
Với những phân tích nêu trên, đại biểu đoàn Trà Vinh đề nghị bổ sung vào dự thảo nghị quyết nội dung phân loại rõ đối tượng áp dụng miễn thuế ưu tiên hộ nông dân, hợp tác xã sản xuất, đồng thời áp dụng mức miễn giảm linh hoạt cho tổ chức, cá nhân sử dụng đất không trực tiếp canh tác.
Cùng với đó thiết lập điều kiện sử dụng đất đi kèm chính sách miễn thuế như: không bỏ hoang đất quá 12 tháng, sử dụng đúng mục đích và không vi phạm quy định chuyển nhượng, cho thuê trái phép. Tích hợp chính sách miễn thuế với các chương trình hỗ trợ khác bao gồm tín dụng ưu đãi, đào tạo kỹ thuật, bảo hiểm nông nghiệp đầu tư vào chuỗi giá trị. Xây dựng cơ chế giám sát định kỳ và cơ sở dữ liệu quốc gia minh bạch thông tin, miễn thuế đảm bảo công bằng và hiệu quả chính sách.
CƠ CHẾ ĐÁNH GIÁ ĐỊNH KỲ HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH THUẾ
Cùng quan điểm vấn đề này, đại biểu Hà Sỹ Đồng, đoàn Quảng Trị, cho rằng nghị quyết này cần rà soát lại kỹ các đối tượng được miễn thuế đất để bảo đảm công bằng và đúng mục tiêu, chính sách ban hành để hỗ trợ. Việc miễn thuế nên tập trung vào người dân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, các hợp tác xã và hộ gia đình thực hành canh tác bền vững, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch.
Đối với các tổ chức, doanh nghiệp tích tụ đất quy mô lớn mà không trực tiếp canh tác hoặc có biểu hiện sử dụng đất kém hiệu quả thì cần có cơ chế sàng lọc, đánh giá cụ thể, tránh tình trạng chính sách bị lợi dụng, gây lãng phí ngân sách và tạo ra bất bình đẳng trong tiếp cận chính sách ưu đãi.
Đại biểu Hà Sỹ Đồng, đoàn Quảng Trị.
“Cần gắn chính sách miễn thuế với yêu cầu sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả và tuân thủ đúng quy hoạch. Ở nhiều địa phương, tình trạng bỏ đất nông nghiệp hoang hóa gia tăng do thiếu nhân lực, thu nhập thấp, thị trường thiếu ổn định; thiên tai, dịch bệnh nhiều; rủi ro cao trong sản xuất nông nghiệp”.
Đại biểu đề nghị trong thời gian tới cần có những chính sách hỗ trợ song hành như đào tạo nông dân, tín dụng ưu đãi cho sản xuất nông nghiệp, xây dựng chuỗi giá trị bền vững. Qua đó giúp chính sách miễn thuế không chỉ giảm thu mà thực sự là kích hoạt lại sức sống của nền nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đặc biệt đại biểu cũng cho rằng cần có cơ chế đánh giá định kỳ hiệu quả của chính sách thuế...
Trước các ý kiến đại biểu, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng nhấn mạnh mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thuế, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong những năm qua là thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Đảng và Nhà nước, đồng thời góp phần hỗ trợ trực tiếp đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn, khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, khuyến khích các tổ chức, cá nhân sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng trả lời tại hội trường.
Về đánh giá tác động và thời hạn áp dụng chính sách, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng thông tin, việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2030 sẽ không làm giảm thu do đây là chính sách đang được thực hiện trên thực tế. Với đề xuất kéo dài thời gian miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp như quy định hiện hành đến hết ngày 31/12/2030 số tiền thuế sử dụng đất nông nghiệp được miễn khoảng 7500 tỷ đồng/năm.
“Đây tiếp tục là hình thức hỗ trợ trực tiếp tới người nông dân, là nguồn đầu tư tài chính trực tiếp cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Qua đó tạo công ăn việc làm cho người nông dân, cải thiện cuộc sống, gắn bó với hoạt động sản xuất nông nghiệp, góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển bền vững”.
Theo Bộ trưởng, đều này thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội 5 năm, quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất ngành nông nghiệp.
Việc tiếp tục thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong giai đoạn tới là phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nội dung dự thảo nghị quyết không có chính sách mới mà chỉ kéo dài thời gian miễn thuế đến hết năm 2030.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật đất về đất đai, nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất đai và các chế tài xử lý vi phạm về quản lý, sử dụng đất do Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các cơ quan có chức năng quản lý đất đai tại địa phương.
Để khắc phục tình trạng bỏ hoang đất nông nghiệp, Luật Đất đai 2024 đã có quy định đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản không được sử dụng trong thời gian 12 tháng liên tục; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời gian 18 tháng liên tục. đất trồng rừng không được sử dụng trong thời gian 24 tháng liên tục và đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà không đưa đất vào sử dụng theo thời hạn ghi trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính sẽ bị thu hồi đất.
Ngoài ra đất nông nghiệp bỏ hoang bị thu hồi thuộc trường hợp không được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được quy định tại khoản 3 Điều 101 của Luật Đất đai.
Đỗ Phong