Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan
Sáng nay, với tỷ lệ tán thành cao (91,12%), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đột phá cho công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân.
Một trong những điểm nhấn quan trọng nhất của Nghị quyết là mở rộng quyền lợi, giảm chi phí y tế cho người dân. Theo đó, Nhà nước sẽ tăng tỷ lệ và mức thanh toán bảo hiểm y tế, đồng thời chi trả cho hoạt động khám sàng lọc, chẩn đoán và điều trị sớm một số bệnh theo lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và khả năng cân đối ngân sách, quỹ bảo hiểm y tế.
Những nhóm đối tượng được hưởng lợi lớn gồm hộ cận nghèo và người cao tuổi từ 75 tuổi trở lên đang nhận trợ cấp hưu trí xã hội, với mức hưởng 100% chi phí khám chữa bệnh trong phạm vi bảo hiểm y tế chi trả. Người thuộc diện chính sách xã hội, nhóm yếu thế, người thu nhập thấp và các đối tượng cần ưu tiên khác cũng sẽ được tăng tỷ lệ mức hưởng. Quỹ bảo hiểm y tế sẽ thanh toán hoạt động sàng lọc, chẩn đoán và điều trị sớm một số bệnh.
Chính sách miễn viện phí ở mức cơ bản cho người tham gia bảo hiểm y tế sẽ được triển khai theo lộ trình, dự kiến áp dụng từ năm 2030. Bên cạnh đó, hệ thống bảo hiểm y tế sẽ thí điểm đa dạng hóa các gói bảo hiểm, mở rộng loại hình cung ứng dịch vụ và triển khai bảo hiểm y tế bổ sung do doanh nghiệp cung cấp trong trường hợp đủ điều kiện.
Chính phủ sẽ quy định chi tiết lộ trình tăng mức hưởng, danh mục bệnh được quỹ chi trả và nội dung miễn viện phí, đồng thời Bộ Y tế hướng dẫn triển khai trong phạm vi thẩm quyền.
Nghị quyết cũng bổ sung nhiều chính sách ưu đãi về tiền lương và phụ cấp cho nhân viên ngành y tế. Theo đó, nhân viên ngành y tế, bác sĩ y khoa, bác sĩ y học cổ truyền, bác sĩ răng hàm mặt, bác sĩ y học dự phòng và dược sĩ sẽ được xếp lương từ bậc 2 khi được tuyển dụng, cho đến khi có quy định mới. Nhân viên thường xuyên, trực tiếp làm chuyên môn trong các lĩnh vực tâm thần, pháp y, pháp y tâm thần, hồi sức cấp cứu và giải phẫu bệnh được hưởng phụ cấp ưu đãi nghề 100%. Người làm chuyên môn tại trạm y tế xã và cơ sở y tế dự phòng được hưởng phụ cấp ưu đãi nghề 100% ở vùng khó khăn, biên giới, hải đảo và tối thiểu 70% ở khu vực còn lại. Chính phủ sẽ quy định chi tiết theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
Để thu hút nguồn lực xã hội hóa đầu tư vào y tế, Nghị quyết cũng mở ra nhiều hình thức thu hút đầu tư vào lĩnh vực này gồm: Đầu tư tư nhân, đầu tư theo phương thức đối tác công tư, vay vốn đầu tư trang thiết bị, thuê và cho thuê tài sản, nhận viện trợ và các hình thức khác theo pháp luật.
Ngoài ra, Nghị quyết cũng đưa ra nhiều chính sách ưu đãi về đất đai, thuế... với lĩnh vực này.
"Chốt" đầu tư hơn 88.600 tỷ đồng nâng cao sức khỏe nhân dân
Cũng trong sáng nay, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035.
Nghị quyết được ban hành với mục tiêu bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở, hạn chế bệnh tật; gia tăng tỷ lệ sinh, phấn đấu tỷ số giới tính khi sinh đạt mức cân bằng tự nhiên, thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số; tăng cường chăm sóc cho các nhóm dễ bị tổn thương; góp phần nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh.
Về mục tiêu cụ thể, chương trình góp phần thực hiện mục tiêu tỷ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và 95% đến năm 2035. Phấn đấu tỷ lệ người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời đạt 100% từ năm 2030. Tỷ lệ Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) các tỉnh, thành phố đủ năng lực xét nghiệm tác nhân, kháng nguyên, kháng thể các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chất lượng nước sạch, vệ sinh trường học theo quy định của Bộ Y tế đến năm 2030 đạt 100%.
Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm theo hướng dẫn của Bộ Y tế đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%. Tỷ suất sinh thô đến năm 2030 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2030. Tỷ số giới tính khi sinh đến năm 2030 giảm xuống dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống và đến năm 2035 giảm xuống dưới 107 bé trai/100 bé gái sinh ra sống.
Tỷ lệ cặp nam, nữ được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90% vào năm 2030 và 95% vào năm 2035; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và 90% vào năm 2035; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và đạt 95% vào năm 2035. Số lượng người dễ bị tổn thương được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tại các cơ sở chăm sóc xã hội đến năm 2030 tăng thêm 70% so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 90% so với năm 2030.
Về đối tượng thụ hưởng của Chương trình, trong đó ưu tiên các đối tượng ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo; người có công với cách mạng, người cao tuổi, bà mẹ, trẻ em, các cặp vợ chồng và cá nhân trong độ tuổi sinh đẻ, người khuyết tật, người di cư, lao động các khu công nghiệp và các đối tượng ưu tiên khác theo quy định của Chính phủ.
Các tỉnh, thành phố trong cả nước, ưu tiên vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo.
Thời gian thực hiện Chương trình từ năm 2026 đến hết năm 2035. Tổng nguồn vốn thực hiện giai đoạn 2026 - 2030 là 88.635 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách Trung ương 68.000 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phương 20.041 tỷ đồng, nguồn vốn khác dự kiến 594 tỷ đồng.
Căn cứ kết quả thực hiện của Chương trình giai đoạn 2026 - 2030, Chính phủ trình Quốc hội quyết định nguồn lực thực hiện Chương trình giai đoạn 2031 - 2035.
Về cơ chế, giải pháp thực hiện Chương trình: Ban hành các văn bản hướng dẫn, cơ chế, chính sách về quản lý, chuyên môn kỹ thuật để thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ các hoạt động của Chương trình. Thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động nguồn lực, bố trí đủ và kịp thời vốn ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương; huy động tối đa các nguồn vốn hợp pháp khác; bảo đảm đủ nguồn nhân lực tham gia thực hiện Chương trình.
Trong đó, tập trung nguồn lực của Chương trình để giải quyết các vấn đề chính sau đây: Nâng cao năng lực mạng lưới y tế cơ sở, đầu tư cơ sở hạ tầng, thiết bị; đào tạo bác sĩ chuyên khoa; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, theo dõi và tư vấn sức khỏe toàn diện. Nâng cao hiệu quả phòng bệnh và nâng cao sức khỏe: Đầu tư thiết bị; phòng, chống chủ động dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; phòng, chống bệnh không lây nhiễm, bệnh tật phổ biến lứa tuổi học đường và bảo đảm dinh dưỡng hợp lý. Thúc đẩy gia tăng tỷ lệ sinh, đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, nâng cao chất lượng dân số, thích ứng với già hóa dân số, đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe người cao tuổi...
Thùy Liên