Trước yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động, nhiều cơ sở giáo dục đại học đang dần chuyển sang mô hình đào tạo 3 học kỳ/năm, cho phép sinh viên rút ngắn thời gian học và sớm tiếp cận thực tiễn.
Theo đại diện một số đơn vị, mô hình này không chỉ giúp phân bổ lại khối lượng học tập hợp lý hơn cho sinh viên mà còn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực giảng dạy và cơ sở vật chất của nhà trường.
Mô hình đào tạo 3 học kỳ/năm giúp sinh viên duy trì nhịp học tập ổn định
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Mai Đức Toàn - Chuyên gia hướng nghiệp, Giám đốc tuyển sinh - Truyền thông, Trường Đại học Gia Định chia sẻ: "Hiện nay, nhà trường đang triển khai mô hình đào tạo 3 học kỳ/năm với hầu hết các ngành đào tạo thuộc khối Kinh tế - Quản trị, Truyền thông - Công nghệ, Ngôn ngữ và những ngành thuộc khối Xã hội - Nhân văn. Với mô hình này, sinh viên có thể hoàn tất chương trình học chỉ từ 3 năm, thay vì 4 năm như trước đây.
Việc lựa chọn mô hình 3 học kỳ/năm bắt nguồn từ triết lý đào tạo tinh gọn, thực tiễn, thích ứng nhanh với nhu cầu thị trường lao động, đồng thời, mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho sinh viên và nhà trường.
Với sinh viên, mô hình này giúp rút ngắn thời gian học, tiết kiệm chi phí sinh hoạt và sớm tiếp cận thị trường lao động. Ngoài ra, việc học liên tục nhưng hợp lý, giúp sinh viên duy trì nhịp độ học tập, hạn chế việc quên kiến thức và tăng cơ hội thực tập, cọ xát thực tế.
Với nhà trường, đây là mô hình tối ưu trong tổ chức đào tạo, giúp phân bổ tài nguyên giảng dạy hiệu quả hơn, linh hoạt mở lớp, triển khai hợp tác với doanh nghiệp và các hoạt động thực hành, thực tập quanh năm. Đây không chỉ là sự đổi mới về mặt tổ chức, mà còn là bước tiến giúp sinh viên học đúng, học thực tế, để tự tin hội nhập và phát triển sự nghiệp sớm".
Tiến sĩ Mai Đức Toàn - Chuyên gia hướng nghiệp, Giám đốc tuyển sinh - Truyền thông Trường Đại học Gia Định. Ảnh: NVCC.
Theo thầy Toàn, khó khăn lớn nhất khi triển khai mô hình này là việc tổ chức đào tạo phải được tính toán kỹ lưỡng, từ khâu phân bổ giảng viên, sắp xếp thời khóa biểu, cho đến quản lý chất lượng giảng dạy nhằm đảm bảo tính liên tục nhưng không được quá tải.
Với sinh viên, việc học quanh năm sẽ đòi hỏi ý thức tự học, khả năng tự quản lý thời gian và sức bền cao hơn so với mô hình 2 học kỳ/năm. Vì thế, nhà trường luôn có đội ngũ cố vấn học tập, tư vấn tâm lý, cùng các hoạt động ngoại khóa, câu lạc bộ để hỗ trợ sinh viên cân bằng giữa học tập và đời sống tinh thần.
Với giảng viên, việc giảng dạy xuyên suốt trong 3 học kỳ/năm đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo và sẵn sàng đổi mới trong phương pháp truyền đạt. Đây vừa là thách thức nhưng cũng là cơ hội để thầy cô nâng cao năng lực chuyên môn, bắt nhịp với tốc độ phát triển của giáo dục hiện đại.
Mặc dù còn một số khó khăn nhưng hầu hết sinh viên đều phản hồi tích cực về việc học theo mô hình này sẽ giúp các em duy trì ổn định nhịp học tập, không bị quên bài sau kỳ nghỉ dài, đồng thời rút ngắn thời gian ra trường để bắt đầu sớm hơn với công việc.
Cùng bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Cửu Đỉnh - Trưởng phòng, Phòng Đào tạo, Trường Đại học Văn Lang chia sẻ: “Nhà trường bắt đầu áp dụng mô hình đào tạo 3 học kỳ/năm từ năm 2012 với tất cả các ngành học. Một năm học gồm 2 học kỳ chính và 1 học kỳ hè, khối lượng học tập trong học kỳ hè sẽ ít hơn học kỳ chính. Sinh viên được nghỉ 3 tuần vào dịp Tết Nguyên Đán và nghỉ hè 4 tuần vào tháng 8. Trong một học kỳ, các em tự chủ động đăng ký số môn học để hoàn thành lộ trình đào tạo theo năng lực và kế hoạch cá nhân, tùy từng trường hợp có thể kết thúc tiến độ học tập nhanh hoặc chậm hơn.
Tuy nhiên, theo quy chế đào tạo, số tín chỉ đăng ký trong mỗi học kỳ của sinh viên không ít hơn 2/3 khối lượng học tập chuẩn (khoảng 9 tín chỉ) và không cao hơn 3/2 khối lượng học tập chuẩn của từng học kỳ (khoảng 19 tín chỉ). Trong toàn khóa học, mỗi sinh viên cần hoàn thành tổng khối lượng tín chỉ theo khung chương trình đào tạo, trung bình từ 120-130 tín chỉ. Ngoài ra một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù như chương trình kỹ sư, kiến trúc sư, y khoa, dược học có thời gian đào tạo từ 4,5-6 năm, khoảng từ 150-225 tín chỉ".
Lý giải về việc lựa chọn mô hình đào tạo này, thầy Đỉnh cho biết, nếu đào tạo theo mô hình 2 học kỳ/năm, sinh viên sẽ có kỳ nghỉ hè kéo dài khoảng 3 tháng. Trong khi đó, với 3 học kỳ, kỳ học thứ ba thường kéo dài khoảng 2 tháng nên các em sẽ được nghỉ trọn vẹn tháng 8 và quay trở lại học vào tháng 9. Như vậy, dù thời gian nghỉ rút ngắn nhưng sinh viên vẫn có một khoảng thời gian nghỉ chính thức để thư giãn và lấy lại năng lượng.
Ngoài ra, nhiều sinh viên phản ánh về kỳ nghỉ hè dài khiến quá trình học tập bị gián đoạn, dẫn đến tâm lý nhàm chán và thiếu định hướng. Đặc biệt, với những em về quê, việc ở nhà trong thời gian quá lâu khiến các em mong muốn quay trở lại trường sớm hơn để tiếp tục việc học.
Tiến sĩ Nguyễn Cửu Đỉnh - Trưởng phòng, Phòng Đào tạo, Trường Đại học Văn Lang. Ảnh: NVCC.
Theo thầy Đỉnh, việc áp dụng mô hình 3 học kỳ/năm mang lại nhiều thuận lợi cho cả người học và nhà trường.
Về phía nhà trường, khi triển khai 3 học kỳ, chương trình được phân bổ đều hơn trong năm giúp giãn thời gian sử dụng phòng ốc, giảm áp lực lên cơ sở vật chất hơn. Tương tự, với đội ngũ giảng viên, nếu dồn toàn bộ lịch dạy vào 2 học kỳ chính, nhà trường sẽ phải huy động một lượng lớn giảng viên trong cùng một khoảng thời gian, gây áp lực lên công tác sắp xếp, điều phối. Việc phân bổ thời gian giảng dạy hợp lý giữa 3 học kỳ sẽ tạo điều kiện để giảng viên có lịch làm việc đều đặn, tránh tình trạng dồn ép vào một thời điểm, từ đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Với người học, mô hình này giúp phân bổ khối lượng học tập hợp lý hơn, giảm áp lực tiếp thu trong từng giai đoạn. Sinh viên không bị dồn quá nhiều kiến thức trong một học kỳ, nhờ đó việc học sẽ trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả. Ngoài ra, nếu đi đúng lộ trình do nhà trường xây dựng, các em còn có cơ hội rút ngắn thời gian đào tạo.
Bên cạnh việc giảm áp lực học tập, việc phân bổ chương trình đều trong cả 3 học kỳ còn giúp các em dễ dàng sắp xếp lịch học để tham gia đầy đủ những học phần thực hành, tận dụng tốt cơ sở vật chất và được giảng viên hướng dẫn sát sao hơn. Nhờ đó, sinh viên không chỉ tiếp thu kiến thức tốt mà còn phát triển kỹ năng vững chắc, đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo.
Sinh viên Trường Đại học Văn Lang trong một buổi học. Ảnh: website nhà trường.
Cần chuẩn hóa chương trình và đầu tư công nghệ
Thầy Toàn cho rằng, việc rút ngắn thời gian học xuống còn khoảng 3 năm thông qua mô hình 3 học kỳ/năm là xu hướng đào tạo đang được nhiều trường đại học trên thế giới áp dụng. Tuy nhiên, việc vừa đảm bảo tốc độ, vừa giữ vững chất lượng là vấn đề cần có sự tính toán kỹ lưỡng.
Trước hết, phải thiết kế lại chương trình học theo hướng tinh gọn, thực tiễn, đảm bảo không dàn trải mà vẫn đủ khối lượng kiến thức cốt lõi. Song song với đó, cần tăng cường tính ứng dụng, kết hợp học lý thuyết với thực hành, thực tập doanh nghiệp và làm dự án thực tế. Ngoài ra, cần ứng dụng công nghệ vào giảng dạy, tổ chức học tập linh hoạt theo hình thức trực tuyến kết hợp trực tiếp để tiết kiệm thời gian, nâng cao trải nghiệm cho người học.
Đặc biệt, mô hình này cần có sự linh hoạt theo đặc thù từng ngành nghề. Với nhóm ngành về Kinh tế - Quản trị, Truyền thông, Công nghệ, Ngôn ngữ, rút ngắn thời gian đào tạo sẽ giúp sinh viên nhanh chóng tiếp cận thị trường lao động, mà không ảnh hưởng đến năng lực chuyên môn. Còn những ngành có tính học thuật cao hoặc đặc thù về thời gian thực hành thí nghiệm như Răng Hàm Mặt, Kỹ thuật phục hồi chức năng, Điều dưỡng... nên giữ thời gian đào tạo theo khung chuẩn để đảm bảo chất lượng chuyên môn.
Hiện tại, Trường Đại học Gia Định áp dụng mô hình 3 học kỳ có chọn lọc dựa trên tiêu chí về đặc điểm ngành học, mức độ thực hành cùng khả năng sắp xếp lộ trình học thông minh, phù hợp với sinh viên. Nhờ vậy, nhà trường vừa đảm bảo chất lượng đào tạo, vừa giúp sinh viên học hiệu quả, học sát thực tế và sớm tiếp cận với thị trường lao động.
Sinh viên Trường Đại học Gia Định trong một buổi học thực hành. Ảnh: NTCC.
Từ quá trình triển khai thực tế, thầy Toàn cho rằng, đây là hướng đi phù hợp với bối cảnh giáo dục hiện đại, đặc biệt với những sinh viên mong muốn rút ngắn thời gian học, sớm ổn định sự nghiệp. Tuy nhiên, để mô hình này vận hành hiệu quả và bền vững hơn trong tương lai, thầy Toàn lưu ý các cơ sở giáo dục cần đổi mới chương trình, tăng cường đầu tư vào cơ sở vật chất.
Thứ nhất, cần chuẩn hóa và linh hoạt trong thiết kế chương trình đào tạo, đảm bảo khối lượng kiến thức được phân bổ hợp lý qua từng học kỳ, tránh dồn nén hoặc gây áp lực quá lớn cho người học. Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các khoa chuyên môn, phòng đào tạo và đội ngũ cố vấn học tập.
Thứ hai, cần tăng cường đầu tư vào hệ thống hỗ trợ học tập, bao gồm hạ tầng công nghệ, nền tảng số, thư viện điện tử, đặc biệt là các công cụ quản lý học tập để sinh viên có thể tự học, tra cứu và tương tác với giảng viên một cách linh hoạt, giảm tải áp lực từ việc học liên tục.
Thứ ba, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp để tổ chức các đợt kiến tập, thực tập và trải nghiệm nghề nghiệp theo chu kỳ 3 học kỳ. Điều này giúp sinh viên không chỉ học nhanh mà còn được “va chạm” thực tế đúng thời điểm, tạo nền tảng vững chắc khi ra trường.
Thứ tư, cần có thêm sự đồng hành và quan tâm đến sức khỏe tinh thần của sinh viên. Mô hình học liên tục trong năm sẽ có những giai đoạn áp lực, do đó việc tổ chức các hoạt động tư vấn tâm lý, ngoại khóa, câu lạc bộ kỹ năng mềm sẽ giúp sinh viên luôn có động lực học tập và cân bằng được cảm xúc.
Trong khi đó, để triển khai hiệu quả mô hình đào tạo 3 học kỳ/năm, Trưởng phòng, Phòng Đào tạo, Trường Đại học Văn Lang cho biết, nhà trường tạo điều kiện để sinh viên tự chủ động đăng ký học phần trong học kỳ thứ ba nếu đáp ứng đủ năng lực và điều kiện. Cách làm này giúp người học linh hoạt xây dựng tiến độ học tập theo nhu cầu cá nhân, vừa rút ngắn thời gian đào tạo, vừa đảm bảo chất lượng.
Nhà trường cũng sắp xếp các hoạt động trải nghiệm với lộ trình rõ ràng, nội dung bài bản, được triển khai định kỳ trong suốt năm học. Sinh viên có thể tham gia thường xuyên để rèn luyện và vận dụng kiến thức vào thực tế. Quá trình này giúp các em từng bước làm quen, tích lũy kỹ năng và hình thành tư duy nghề nghiệp sớm.
Bên cạnh đó, nhà trường cũng chú trọng đầu tư vào cơ sở vật chất và đội ngũ nhân sự nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. Các phòng học, phòng thí nghiệm, thư viện cũng như không gian học tập chung được nâng cấp để đáp ứng nhu cầu học liên tục trong cả 3 học kỳ.
Đội ngũ giảng viên được bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, phương pháp giảng dạy, đảm bảo đáp ứng tốt khối lượng giảng dạy được phân bổ đều trong năm. Sự đầu tư đồng bộ này giúp môi trường học tập trở nên hiện đại, thuận lợi và hiệu quả hơn cho cả giảng viên lẫn sinh viên.
Khánh Hòa