Sau sáp nhập hành chính, TP HCM đứng trước cơ hội tái cấu hình hạ tầng quản trị - kinh tế - xã hội trên nền tảng số.
Những thách thức
Ở tầm quốc gia, Việt Nam đã ban hành đồng bộ các chính sách thúc đẩy chuyển đổi số, tạo "đường băng" pháp lý - kỹ thuật cho các đô thị lớn bứt tốc.
TP HCM đang ở điểm bùng phát về nhu cầu số hóa quản trị nhưng vướng nhiều điểm nghẽn hệ thống. Hạ tầng đô thị quá tải trong khi dữ liệu vận hành (giao thông, ngập nước, môi trường, nhu cầu dịch vụ) phân tán, thiếu chuẩn kết nối và độ phủ cảm biến không đồng đều, khiến điều phối thời gian thực kém hiệu quả. Dữ liệu và trách nhiệm rải rác qua nhiều sở, ngành, phường/xã; quy trình thẩm định - cấp phép vẫn nặng hồ sơ giấy; cơ chế "một lần khai báo", chia sẻ dữ liệu theo vai trò và đánh giá tác động bảo vệ dữ liệu (DPIA) chưa được chuẩn hóa.
Tài chính - mua sắm còn bất cập, mô hình "trả theo hạng mục" không khuyến khích đổi mới, khó đo lường kết quả, trong khi dự án số hiếm khi có dòng tiền hoàn vốn trực tiếp. Khoảng trống năng lực (kiến trúc dữ liệu, an toàn thông tin, trí tuệ nhân tạo/học máy (AI/ML), quản trị sản phẩm) và chênh lệch tiếp cận số ở ngoại thành làm tăng nguy cơ "dịch vụ số cho số ít". Đồng thời, yêu cầu bảo vệ dữ liệu cá nhân, an ninh mạng và rủi ro "khóa chặt nhà cung cấp" đẩy chi phí tích hợp lên cao. Bài toán liên vùng (di chuyển, logistics, môi trường) đòi hỏi dữ liệu liên thông hiện còn thiếu.
Vì vậy, nhiều sáng kiến dừng ở thí điểm, chưa tạo "hiệu ứng mạng lưới". Bước tiếp theo không phải "thêm ứng dụng", mà là tổ chức lại định danh - dữ liệu - quy trình - trách nhiệm quanh các sự kiện đời sống và mục tiêu kết quả đo được.
TP HCM đứng trước cơ hội tái cấu hình hạ tầng quản trị - kinh tế - xã hội trên nền tảng sôÁ̉nh: HOÀNG TRIỀU
Kiến trúc 4 lớp xuyên suốt
TP HCM đang đứng trước cơ hội hiếm có để "đổi cách vận hành" chứ không chỉ "đổi công nghệ". Mô hình dưới đây được thiết kế theo nguyên tắc định danh dữ liệu dịch vụ điều hành, bảo đảm mỗi bước đều gắn với trải nghiệm của người dân - doanh nghiệp và có thể đo lường được hiệu quả.
Cụ thể kiến trúc 4 lớp - từ "luật chơi" đến "mặt tiền trải nghiệm" như sau:
Lớp 0 - Quản trị và pháp lý đặt ra "luật chơi" chung để dữ liệu được chia sẻ an toàn, đúng pháp lý và thống nhất trách nhiệm giữa các bên. Trên nền tảng đó, thành phố cần kiện toàn thiết chế điều phối gồm Ủy ban Dữ liệu Đô thị do UBND thành phố phụ trách và Văn phòng Kiến trúc Đô thị Số làm thường trực; ban hành quy chế quản trị dữ liệu với danh mục, phân loại độ nhạy và cơ chế chia sẻ theo vai trò; tích hợp nguyên tắc bảo vệ dữ liệu cá nhân ngay từ khâu thiết kế và yêu cầu đánh giá tác động bảo vệ dữ liệu đối với các dự án nhạy cảm. Hệ thống định danh - xác thực phải thống nhất qua VNeID theo Luật Giao dịch điện tử để tiến tới "một lần đăng nhập, nhiều dịch vụ". Cùng lúc, thành phố cần vận dụng cơ chế sandbox và PPP theo Nghị quyết 98 để thử nghiệm nhanh, đánh giá độc lập rồi nhân rộng mô hình hiệu quả.
Lớp 1 - Hạ tầng số cung cấp nền kỹ thuật linh hoạt, an toàn, có khả năng kết nối hệ thống cũ - mới và xử lý dữ liệu thời gian thực với chi phí tối ưu. Trọng tâm là xây dựng Urban Cloud theo kiến trúc hybrid, kết hợp trung tâm dữ liệu hiện hữu, đám mây công và các điểm tính toán biên tại phường/xã cho các bài toán tức thời. Cùng với đó, thành phố cần dựng trung tâm tích hợp dữ liệu và cổng API dùng chung để "bọc" các hệ thống di sản, dần đưa chúng vào chuẩn mới mà không gián đoạn dịch vụ. Mạng cảm biến đô thị về giao thông, môi trường và ngập phải được thiết kế theo chuẩn mở để cả thiết bị của cộng đồng và doanh nghiệp có thể cắm vào. Trên lớp hạ tầng này, Trung tâm điều hành thông minh (IOC) đóng vai trò "buồng lái" theo dõi KPI, điều phối sự cố, trong khi Trung tâm điều hành an ninh - Security Operation Center (SOC) giám sát an ninh mạng 24/7 theo hướng zero-trust.
Lớp 2 - Nền tảng dữ liệu đô thị biến dữ liệu phân tán thành tài sản chung có quản trị, cung cấp nguồn sự thật duy nhất cho điều hành, hoạch định, phân tích và AI. Về kỹ thuật, thành phố cần triển khai kiến trúc data lakehouse kết hợp dòng dữ liệu theo lô và thời gian thực; quản trị đầy đủ siêu dữ liệu, dòng phả hệ và chất lượng dữ liệu. Về nội dung, cần chuẩn hóa các bộ dữ liệu chủ như công dân, doanh nghiệp, phương tiện, địa chỉ và thửa đất; liên thông cơ sở dữ liệu dân cư theo nguyên tắc tối thiểu hóa và ẩn danh hóa để bảo vệ quyền riêng tư. Trên nền tảng đó, cổng dữ liệu mở cung cấp dữ liệu công không nhạy cảm cho xã hội, còn chợ dữ liệu ẩn danh/giả danh cho phép viện, trường và doanh nghiệp sử dụng có trả phí, qua đó tạo nguồn thu quay vòng nâng cấp hạ tầng. Các năng lực phân tích tiên tiến như dự báo ùn tắc, nguy cơ ngập hay phát hiện bất thường nên được đóng gói dưới dạng AI-as-a-Service để start-up và sở, ngành có thể sử dụng ngay.
Lớp 3 - Dịch vụ số ưu tiên là "mặt tiền trải nghiệm" đối với người dân. Đây là nơi người dân trực tiếp tương tác với các dịch vụ và trải nghiệm số, giúp đưa giá trị đến người dân và doanh nghiệp một cách nhanh nhất, đồng thời gắn chặt với các chỉ số hiệu quả. Trước hết, siêu ứng dụng đô thị cho phép đăng nhập bằng VNeID, tích hợp thanh toán và gom sớm 25 thủ tục hành chính phổ biến, vé xe buýt/tàu điện, hóa đơn tiện ích và phản ánh hiện trường. Song song, mô hình Mobility-as-a-Service dựa trên dữ liệu giao thông mở và thanh toán liên thông sẽ gợi ý lộ trình thông minh, hướng tới giảm 30% thời gian hành trình giờ cao điểm trên các khu vực thí điểm. Hệ thống an sinh chủ động sử dụng dữ liệu hộ - nhân khẩu để tự động xác định, nhắc hẹn và chi trả trợ cấp, phấn đấu 100% đối tượng ở năm phường/xã thí điểm nhận hỗ trợ đúng hạn. Quy trình cấp phép - thanh tra được số hóa toàn trình với chữ ký số, thanh toán điện tử và theo dõi tiến độ thời gian thực, đặt mục tiêu rút ngắn tối thiểu 40% thời gian giải quyết. Cuối cùng, digital twin cho quy hoạch theo định hướng TOD sẽ mô phỏng tác động các dự án metro, phân tích quỹ đất và tối ưu vị trí dịch vụ công trước khi phê duyệt, với yêu cầu mọi dự án trọng điểm đều sử dụng mô hình twin khi trình.
Không chỉ là số hóa thủ tục
Đô thị số không chỉ là "số hóa thủ tục", mà là một kiến trúc vận hành mới của thành phố - lấy định danh số + dữ liệu + dịch vụ làm trục, IOC làm bộ não, siêu ứng dụng là "cửa trước" cho người dân - doanh nghiệp và thị trường dữ liệu là động cơ kinh tế. Với hành lang pháp lý đã sẵn (Quyết định 749/ QĐ-TTg, Luật Giao dịch điện tử 2023, Nghị định 13/2023/NĐ-CP, Đề án 06) và quyền thí điểm từ Nghị quyết 98/2023/QH15, TP HCM có thể đi đầu khu vực nếu quyết liệt chọn đúng bài toán, quản trị dữ liệu minh bạch và đo lường tác động theo chuẩn quốc tế.
Gợi mở bài học khu vực
Khi các đô thị châu Á tăng tốc chuyển đổi số, những mô hình thành công đều đi theo một quỹ đạo chung: thống nhất định danh số, xây nền tảng dữ liệu có quản trị, rồi đưa dịch vụ ra một "mặt tiền trải nghiệm" duy nhất. Đây chính là khung tham chiếu để TP HCM thiết kế mô hình đô thị số ít ma sát, dễ mở rộng và đo lường được hiệu quả, tạo bước chuyển từ thí điểm rời rạc sang vận hành theo dữ liệu ở quy mô lớn.
Ví dụ điển hình, ở Singapore, hạt nhân là Singpass kết hợp kho dữ liệu dùng chung và thanh toán điện tử; dịch vụ công được thiết kế theo sự kiện đời sống (sinh con, mua nhà, đổi việc), giúp người dân đi trọn một hành trình thay vì qua nhiều cơ quan. Bài học cốt lõi: hợp nhất định danh - dữ liệu - thanh toán và API hóa dịch vụ công để khu vực tư cùng đổi mới. Jakarta (Indonesia) chọn hướng "đô thị một ứng dụng" với JAKI, tích hợp hàng chục dịch vụ, đồng sáng tạo với người dân và mở dữ liệu cho doanh nghiệp - trường viện, qua đó giảm phân mảnh và hình thành kinh tế dữ liệu địa phương. Phuket (Thái Lan) xây City Data Platform thời gian thực và nhận ra thách thức nằm ở chuẩn kết nối, chất lượng dữ liệu và cơ chế ra quyết định...
TS NGUYỄN NHẬT MINH, Giảng viên Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam