Sáng 6/6, Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương phối hợp với Thương vụ Việt Nam tại Canada tổ chức Hội thảo xúc tiến thương mại sang thị trường Canada.
Theo đại diện Cục Xúc tiến thương mại, Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ 7 của Canada và đứng đầu trong số các nước ASEAN, chiếm gần 45% tổng kim ngạch Canada nhập khẩu từ khu vực.
Năm 2024, kim ngạch thương mại song phương đạt khoảng 7,2 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Canada hơn 6,3 tỷ USD, và nhập khẩu gần 0,8 tỷ USD. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm dệt may, giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản, cà phê, linh kiện điện tử, máy móc thiết bị… đều được người tiêu dùng Canada đánh giá cao về chất lượng và giá cả cạnh tranh.
Ngược lại, Canada là nguồn cung đáng tin cậy các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, thực phẩm chế biến, phân bón và nguyên liệu công nghiệp sản xuất.
Hội thảo xúc tiến thương mại sang thị trường Canada ngày 6/6 diễn ra theo hình thức trực tuyến. Ảnh: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN
Canada là một trong những thị trường tiềm năng hàng đầu với nền kinh tế mở, có nhu cầu đa dạng về hàng hóa, sở hữu sức mua lớn và hệ thống tiêu chuẩn cao, đóng vai trò là cửa ngõ quan trọng để doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận sâu hơn chuỗi cung ứng khu vực Bắc Mỹ. Đặc biệt, hai quốc gia cùng là thành viên của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), đối tác trong các cơ chế WTO, APEC..., có cơ chế Ủy ban hợp tác kinh tế hỗn hợp chung.
Tuy nhiên, hoạt động thương mại hai bên vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Trong đó, khoảng 4 tỷ USD trong tổng kim ngạch hàng hóa Việt Nam vào thị trường Canada thông qua các kênh phân phối trung gian đặt tại Mỹ.
Nguyên nhân chủ yếu là do đặc điểm vận hành của chuỗi cung ứng Bắc Mỹ, nơi nhiều tập đoàn bán lẻ lớn như Walmart, Costco, Amazon, Wayfair... đặt trung tâm logistics tại Mỹ để phục vụ cả khu vực này. Mô hình phân phối này phần nào giúp hàng hóa Việt Nam tiếp cận thuận lợi hơn tới người tiêu dùng Canada nhờ tận dụng cơ sở hạ tầng và năng lực phân phối hiện đại.
Dù vậy, hình thức này cũng đồng thời đặt ra nhiều thách thức trong việc kiểm soát thị trường mục tiêu, nâng cao năng lực xây dựng thương hiệu quốc gia, cũng như tối ưu hóa giá trị gia tăng và phát triển xuất khẩu bền vững trong dài hạn.
Ngoài vấn đề kênh phân phối, sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam hiện vẫn đối mặt với một số hạn chế về năng lực chế biến sâu, nhận diện thương hiệu chưa được định vị rõ ràng và chất lượng chưa đồng đều. Điều này khiến nhiều nhóm hàng, đặc biệt là nông sản, thực phẩm, dù có sản lượng cao nhưng giá trị kim ngạch chưa tương xứng, phần lớn lợi nhuận vẫn bị chia sẻ qua các khâu trung gian.
Trong khi đó, Tham tán thương mại Thương vụ Việt Nam tại Canada Trần Thu Quỳnh cho biết, theo nghiên cứu của Thương vụ, khoảng 81% hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Canada sử dụng ưu đãi tối huệ quốc (MFN), chỉ có 18% sử dụng ưu đãi CPTPP.
Hiện giày dép, thực phẩm chế biến, sản phẩm chế phẩm ngũ cốc có tỷ lệ sử dụng ưu đãi thuế quan CPTPP tốt nhất. Nhóm sử dụng trung bình là sản phẩm nhựa, cao su, đồ gỗ nội thất và thủ công mỹ nghệ túi xách.
Tuy nhiên, các nhóm hàng quan trọng của Việt Nam là dệt may, đồ chơi, sắt thép, chế phẩm thịt cá có khả năng sử dụng ưu đãi hiệp định CPTPP thấp nhất (với khoảng 5%).
“Doanh nghiệp hai bên cần tận dụng các FTA nói chung cũng như CPTPP nói riêng, không chỉ khai thác ưu đãi về thuế quan để thúc đẩy xuất khẩu trong ngắn hạn, mà ý nghĩa lớn hơn là kết nối sản xuất đầu tư, công nghệ để tạo ra giá trị cao hơn trong hợp tác song phương,” bà Quỳnh nhấn mạnh.
Tỷ lệ sử dụng các form ưu đãi xuất khẩu vào Canada do Thương vụ cung cấp số liệu. Ảnh: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN
Đặc biệt, việc sử dụng CPTPP có lợi thế hơn vào Canada bởi nhà xuất khẩu của nước này rất quan tâm đến sử dụng hàm lượng giá trị khu vực trong chiến lược mua đầu vào. Mục đích nhằm tận dụng nguyên tắc xuất xứ cộng gộp trong sản xuất để xuất khẩu sang các thị trường mà cả Việt Nam và Canada có chung FTA.
Cũng theo bà Quỳnh, đây không chỉ là việc bán nhiều hàng hơn, mà là sử dụng chiến lược công nghiệp dựa trên lợi thế FTA mang lại, cũng như bổ trợ sự tương thích ưu thế giữa hai nước. Trong đó, Canada có lợi thế về tài chính, mạng lưới bán hàng châu Mỹ, công nghệ sản xuất tiên tiến, giải pháp năng lượng. Việt Nam lại là cửa ngõ vào ASEAN, châu Á.
Tham tán thương mại Thương vụ Việt Nam tại Canada cũng cho biết, Chính phủ nước này mới đang nỗ lực xóa bỏ rào cản thương mại nội bộ, trong đó liên quan trực tiếp đến xuất khẩu của Việt Nam là quy chuẩn chung bao bì giữa các tỉnh bang và rỡ bỏ rào cản trong lĩnh vực vận tải. Điều này mở ra tiềm năng cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, giúp giảm chi phí thâm nhập thị trường, mở ra cơ hội đầu tư sản xuất vào Canada, đầu tư trung tâm phân phối, tổng kho của Việt Nam vào Bắc Mỹ, vùng Caribe và Nam Mỹ.
“Nếu vào được Canada, khả năng thâm nhập thị trường Bắc Mỹ rất dễ dàng. Canada có hệ thống đường sắt nội khối phát triển với lưu lượng trung chuyển lớn nhất châu Mỹ, nối hai bờ đông và tây của Canada.
Hệ thống đường sắt nội địa của Canada cũng như hệ thống đường thủy của nước này sẽ giúp phân phối hàng hóa của Việt Nam dễ dàng đến thành phố lớn của Mỹ hoặc kết nối với Nam Mỹ qua vịnh Mexico,” bà Quỳnh nhận định.
Hiện nay, 60% hàng hóa của Việt Nam vào Canada thông qua cảng biển Vancouver, 25% qua cảng vào Mỹ, chỉ có 15% đi qua cảng bờ đông Canada. Trong khi đó, vị trí chiến lược tại cảng bờ đông của quốc gia này ngày càng quan trọng nếu doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu nhiều hơn với chi phí cạnh tranh và thời gian giao hàng ngắn hơn vào Bắc Mỹ.
Chia sẻ kinh nghiệm dưới góc độ doanh nghiệp có mặt tại thị trường Canada, bà Thạch Vũ Thùy Linh – Chủ tịch HĐQT Công ty Renso Foods cho rằng, doanh nghiệp hoạt động tại Canada có chi phí rất cao, có thể gấp 3 – 4 lần so với chi phí ở Việt Nam. Do đó, nếu doanh nghiệp không mang lại hiệu quả nhanh, rủi ro thiệt hại sẽ rất lớn.
Theo bà Linh, các doanh nghiệp Việt Nam cần tập hợp lại, cùng xây dựng, phát triển thương hiệu Việt Nam tại thị trường này. Bởi, sản phẩm từ nước xuất khẩu trong khu vực đang chiếm ưu thế với các sản phẩm thế mạnh của Việt Nam. Đơn cử, trong các siêu thị lớn của Canada, sản phẩm phở “make in Thái Lan” đang xuất hiện rất nhiều, hay sản phẩm nước mắm “make in Hong Kong”, “make in Thái Lan” cũng chiếm ưu thế.
Bên cạnh đó, thị trường Canada rất nghiêm ngặt, đặc biệt khi nước này hỗ trợ y tế toàn dân nên càng kiểm soát chặt chẽ hơn các sản phẩm nhập khẩu. Chính vì vậy, doanh nghiệp trước khi vào thị trường phải rà soát xem đã đáp ứng hay chưa đáp ứng những tiêu chí nào. Nếu cần thiết, các doanh nghiệp hợp tác xây dựng một chuỗi sản xuất, thay vì mỗi doanh nghiệp làm một sản phẩm cạnh tranh với nhau.
Lê Hồng Nhung