Việc Sở Giáo dục và Đào tạo TPHCM tiếp thu, phản ứng nhanh trước “vấn đề thời khóa biểu” (cụ thể là ra quy định cắt lịch học sáng thứ Bảy ở các trường phổ thông), nhưng thực tế lại nảy sinh thêm một “nan đề” khác: các môn học bị dồn lại, học sinh phải học ngày hai buổi với số tiết học tăng lên. Nhiều phụ huynh nhìn vào lịch học ngày hai buổi của con, thấy các môn “tự nguyện” chen vào các giờ học chính khóa, gây thêm áp lực thời gian, bài vở cho con em, làm phát sinh thêm các khoản chi phí trong điều kiện nhiều gia đình đang thắt lưng buộc bụng.
Từ thời khóa biểu ngược về một chủ trương lớn
Có thể xác định ngay, điểm nghẽn của vấn đề là ở sự xuất hiện ồ ạt của “môn tự nguyện”. Nhưng nguồn gốc của “môn tự nguyện” là từ đâu? Cách tổ chức “môn tự nguyện” ở trường công lập ra sao?
Cần phải lần giở lại rất nhiều văn bản và quy định pháp luật nói về “xã hội hóa giáo dục” trong chương trình giáo dục công lập, với tinh thần cởi mở và mục đích chính đáng là nâng cao hiệu quả, đạt đến một số chuẩn quốc tế về chất lượng giáo dục. Trong đó, có thể dẫn lại của Luật Giáo dục năm 2019 để hình dung tín hiệu “đèn xanh” về “Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục” là một chủ trương lớn, mà “liên kết giáo dục” là một biểu hiện cụ thể trên thực tế.
Khoản 2, điều 16 Luật Giáo dục 2019, quy định: “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình cơ sở giáo dục và hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục; khuyến khích phát triển cơ sở giáo dục dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao”. Mệnh đề đầu tiên trong khoản 2, điều 17 của bộ luật trên cũng nêu rõ: “Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục”.
Như vậy, chủ trương chính sách được xem là bước tiến cởi mở, nhìn phổ quát thì hợp với xu thế để huy động nguồn lực xã hội, chung tay nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đặc biệt trong hệ thống trường công lập (nơi được xem là thiết chế giáo dục khá khép kín và ít khả năng linh hoạt) được nới rộng.
Qua thời gian đi vào thực tiễn, thì có thể thấy, tùy vào điều kiện kinh tế xã hội của từng địa phương mà chủ trương và nhu cầu liên kết giáo dục mỗi nơi khác nhau. Điều này cũng dẫn đến một nguy cơ về bất bình đẳng trong điều kiện giáo dục. Ví dụ, ở các đô thị lớn nơi điều kiện kinh tế của cư dân khá, thì việc đưa các bộ môn liên kết vào chương trình giảng dạy như năng khiếu, kỹ năng sống, ngoại ngữ có đối tác là tổ chức giáo dục quốc tế... tương đối dễ dàng; đa số phụ huynh có thể sẵn sàng chi tiền học phí cho con em mình được học thụ hưởng các “gói nội dung” giáo dục này. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế và đầu tư cho giáo dục với mặt bằng ở các vùng nông thôn, miền núi - những nơi mà học sinh được đến trường ăn học đã là điều khó khăn - thì việc được thụ hưởng các bộ môn trên là một giấc mơ xa vời. Chưa nói, sự bất bình đẳng cũng có thể xảy ra trong chính một môi trường giáo dục ngay chính trong một lớp học ở thành thị, khi mà sự phân hóa điều kiện kinh tế trong xã hội vẫn còn cao, dẫn đến việc đáp ứng đầu tư các chương trình liên kết không tránh khỏi những phản ứng khác biệt...
Nhưng điều đáng nói hơn trong việc thực hiện chủ trương “liên kết giáo dục” đó chính là tính minh bạch và hiệu quả. Nói nôm na: Nhà trường khi tổ chức các môn “tự nguyện” trong chính khóa, đã thực thi chủ trương liên kết giáo dục theo tinh thần nào? Định vị điểm dừng để đảm bảo tính bình đẳng cho môi trường giáo dục hay chưa? Làm gì để cân bằng thời lượng và phương pháp để không tạo thêm gánh nặng áp lực cho người học? Thực thi trách nhiệm thuyết phục hay ngầm áp đặt các chương trình? Tính hiệu quả của những chương trình này ở đâu?...
Những câu hỏi để ngỏ
Đầu năm học 2025-2026, Sở Giáo dục và Đào tạo TPHCM đưa ra hướng dẫn về việc tổ chức dạy học 2 buổi/ngày, theo tinh thần chương trình Giáo dục Phổ thông năm 2018; qua đó, đưa ra những thông tin cụ thể về các môn học theo chủ trương xã hội hóa giáo dục. Nói rõ hơn, phụ huynh phải đóng học phí để con em được tiếp cận các “môn tự nguyện” (liên kết) này. Bản hướng dẫn chỉ rõ, các môn liên kết gồm: các hoạt động tư vấn hướng nghiệp, trải nghiệm, STEM/STEAM, kỹ năng sống, năng lực số, trí tuệ nhân tạo (AI), ngoại ngữ, thể thao, văn hóa, nghệ thuật… Việc tiến hành các chương trình liên kết phải phù hợp với điều kiện của từng nhà trường, địa phương; cách tổ chức phải công khai, minh bạch, tự nguyện, đúng quy định pháp luật. Một điểm đáng chú ý đó là hiệu trưởng mỗi trường phải chịu trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ pháp lý hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có nguyện vọng phối hợp, liên kết tổ chức các hoạt động giáo dục tại đơn vị, bao gồm giấy phép thành lập, giấy phép hoạt động (còn thời hạn cho đến khi hết hợp đồng dự kiến), hồ sơ năng lực, khung chương trình, tài liệu giảng dạy. Và việc đưa các chương trình liên kết này vào nội dung giáo dục chính khóa phải được “lãnh đạo nhà trường, tổ chuyên môn, giáo viên nắm bắt các yêu cầu của học sinh (thông qua kiểm tra đánh giá, khảo sát, trao đổi, phỏng vấn…) và các quy định để từ đó xác định nội dung dạy học, hoạt động giáo dục, thời lượng, hình thức phù hợp”.
Vấn đề đặt ra ở đây là việc “nắm bắt các yêu cầu của học sinh” và lấy ý kiến của phụ huynh về việc đồng ý hay không được các nhà trường thực thi khá đơn giản mà không có sự giải thích đủ minh bạch về phương thức đấu thầu, nguyên tắc thẩm định sư phạm cũng như cơ sở giám sát các “gói dịch vụ” giáo dục “cộng thêm” này. Có nơi chỉ tổ chức “trưng cầu dân ý” hình thức, là phát tờ phiếu để lấy ý kiến phụ huynh ngay trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, có nơi thì các môn lù lù xuất hiện trên thời khóa biểu mà không một lời giải thích. Việc giải thích, thuyết phục nội dung các “gói” môn học tự nguyện này xem ra hầu như khá mơ hồ. Đây chính là lý do mà phụ huynh có những phản ứng trái chiều về sự “tự nguyện trong bắt buộc” đối với các chương trình liên kết giáo dục thể hiện trên thời khóa biểu và bảng tính chi phí được nhà trường gửi về hàng tháng.
Một chủ trương cởi mở, nếu giao phó hoàn toàn cho cơ sở và thiếu những bộ tiêu chí, hướng dẫn cụ thể lẫn sự giám sát chặt chẽ về chuyên môn thì khả năng tạo ra các kẽ hở, tiêu cực, mất kiểm soát rất cao, hoặc ít ra, nó cũng dễ có xu hướng thái quá, dẫn đến sự hoài nghi về độ liêm chính và tính hiệu quả. Điều này được đặt ra trong bối cảnh chủ trương miễn học phí cho học sinh phổ thông mới đi vào thực tiễn, nhưng phụ huynh phải chi một khoản không nhỏ cho những bộ môn mà họ buộc lòng phải đánh dấu chọn để con mình không cảm thấy bị thua thiệt trong cùng một môi trường giáo dục. Chất lượng, hiệu quả khai phóng các bộ môn này vẫn chưa được đánh giá, báo cáo rõ ràng. Chưa nói, vì thiếu sự giám sát chuyên môn sư phạm nên ở một số nơi các môn tự nguyện vẫn còn nặng lý thuyết sách vở và lắm khi chồng chéo, lặp lại nội dung các môn chính khóa; và sau cùng, phương thức khảo bài truyền thống chỉ làm gia tăng áp lực cho học sinh.
Việc công khai đánh giá chất lượng hiệu quả các môn này chưa được nhà trường và ngành giáo dục có công cụ tiến hành hàng năm để xây dựng một lộ trình phương pháp ổn định, thanh lọc, hiệu quả. Vì thế, việc củng cố niềm tin trong xã hội là chuyện khó.
Xét về phương diện thị trường, bên liên đới sản xuất, cung cấp dịch vụ/sản phẩm phải minh bạch và thuyết phục để “khách hàng” hiểu về tính chất và chất lượng, tự do chọn lựa tiêu dùng hay không là điều đương nhiên. Nhưng với giáo dục thì vấn đề không hề đơn giản. Chính vì vậy, để chủ trương xã hội hóa giáo dục, liên kết giáo dục muốn đạt tới sự đồng thuận cao, phải có những nguyên tắc, cách làm trách nhiệm và công minh từ phía cơ quan quản lý giáo dục, nhà trường, qua đó có thể thuyết phục, củng cố niềm tin trong xã hội - một yếu tố quan trọng quyết định mục tiêu xã hội hóa.
Xét về nội dung và chất lượng, điều quan trọng nhất đó chính là các môn liên kết cũng phải theo tinh thần tinh gọn hiệu quả, không chất thêm gánh nặng áp lực, sự bất bình đẳng lên vai học sinh.
Nguyễn An Nam