Một chủng tộc sắt đá

Một chủng tộc sắt đá
5 giờ trướcBài gốc
Các vị vua và hoàng đế này, hoặc chí ít là những vị vua châu Âu, là người kế thừa thế hệ các quân vương có truyền thống chiến đấu để duy trì hoặc thường hơn là mở rộng lãnh thổ của họ. Các vua chúa Trung Đông, những người đến sau tương đối muộn, những người vốn được định sẵn như Suleiman là sẽ giành được quyền lực và vinh quang vô song, đã bất ngờ xuất hiện trên chiến trường trong lúc họ đang nghiền nát và chinh phục các phần lãnh thổ của Đế quốc Đông La Mã.
Ngày nay, chúng ta khó lòng mà hình dung ra cú sốc khi người Thổ đặt chân đến các cửa ngõ châu Âu, hay nỗi sợ hãi mà họ tiếp tục gây ra cho đến thế kỷ XVIII và các thời kỳ sau đó nữa, trong một cộng đồng dân chúng luôn coi họ là những kẻ man rợ tàn bạo.
Tranh vẽ mô tả cuộc chiến giữa đế chế Seljuk với đế chế Byzantine.
Trong gần mười thế kỷ, người Thổ, “một trong những chủng tộc thiện chiến của thế giới cổ đại,” đã gây chiến trên các thảo nguyên Thượng Á. Những người Thổ đầu tiên, Tabghach (To-Pa trong tiếng Trung Quốc), từ dãy núi Altay và lưu vực Orkhon và Selenge đã chiếm đóng miền Bắc Trung Quốc vào thế kỷ thứ V và sau đó hòa nhập vào dân bản địa.
Một trăm năm sau, những người Thổ khác đã chinh phục Mông Cổ trước tiên, rồi tới Turkestan. Những vị chủ nhân của một đế chế rộng lớn trải dài từ Hàn Quốc đến Iran sử dụng bảng chữ cái Sogdian, tiền thân của chữ rune. Đế chế này biến mất khi người thành lập Bumin qua đời vào năm 552. Sau đó, lãnh thổ bị chia làm hai:
Con trai của Bumin là Muhan cai trị Vùng Biên giới phía Đông của người Tiên Sơn ở Mông Cổ; và con trai thứ hai của hoàng đế là Istami cai trị Vùng biên giới phía Tây trên thảo nguyên Siberia và Transoxania.
Những dòng chữ ở Orkhon được khắc vào khoảng năm 730 có ghi lại ký ức về cuộc phiêu lưu vĩ đại bằng lời thơ hùng tráng: “Hỡi các thủ lĩnh người Thổ! Ôi Oguz! Hỡi thần dân, hãy lắng nghe! Chừng nào bầu trời chưa sụp đổ và trái đất chưa tách rời, thì ai mà có thể đánh đổ các thể chế của đất nước các bạn, hỡi người dân Thổ?...
Ta không trở thành Vua của một dân tộc giàu có mà là Vua của một dân tộc đói khát, trần trụi và khốn khổ. Bọn ta đồng lòng, em trai ta, Vương công Koltegin, và ta sẽ không để vinh quang và danh tiếng mà cha chú bọn ta đã giành được cho dân tộc ta bị hủy hoại.
Vì tình yêu của người dân xứ Thổ mà đêm ngày ta không thể yên lòng... và bây giờ em trai Koltegin của ta đã chết. Tâm hồn ta giờ đây đầy thống khổ, đôi mắt ta như mù lòa, tâm trí ta tê liệt. Tâm hồn ta đang day dứt... Tổ tiên ta đã chinh phục và bình định được nhiều dân tộc ở mọi ngóc ngách trên thế giới, khiến họ phải cúi đầu và quỳ gối trước mình. Từ vùng núi Khinghan đến Cổng Sắt, sức mạnh của liên minh người Thổ Ottoman di cư ngày càng lớn...”
Rồi đế chế này cũng sụp đổ vào năm 740. Trong khi đó, nhóm người Toukiue phương Tây đầu tiên đã bị người Uighur (Duy Ngô Nhĩ) thay thế trong một thế kỷ.
Đế quốc Uighur vay mượn các loại hình nghệ thuật và tôn giáo Manichaeism (Ma ni giáo) từ bên ngoài Iran (các ốc đảo Turfan và Beshbalik ở Iran) và ngày càng trở nên văn minh hơn. Sau đó, nó bị người Kirghiz vượt mặt và rồi biến mất, chỉ để tái sinh thành một quốc gia Phật giáo ở Turkestan thuộc Trung Quốc. Ở phương Tây, các bộ lạc người Thổ chuyển sang đạo Hồi. Chính từ đây mà thế giới không ngừng chiến tranh và không ngừng thay đổi; triều đại Ghaznavid, Ghourid và Seljuk cũng sớm nổi lên.
“Chủng tộc sắt đá” đã xuất hiện trong lòng châu Á từ lâu, lang thang từ Caspian đến Thái Bình Dương, vượt qua các sa mạc và thung lũng, thành lập các đế chế, tiếp nhận và từ bỏ các tôn giáo. Giờ đây, trên thảo nguyên khắc nghiệt của Tiểu Á, họ đã tìm thấy một đất nước có khí hậu giống Trung Á và chấm dứt cuộc hành trình lang thang của mình. Đế quốc Seljuk được thành lập, với các thủ lĩnh vĩ đại (Alp Arslan, Melikshah) và các nhà cầm quyền tài ba (Nizam al-Mulk), sau đó tan rã thành các công quốc đối địch. Cuối cùng vào đầu thế kỷ XIII, Osmanli hay Ottoman mới xuất hiện.
André Clot/Bách Việt Books-NXB Dân Trí
Nguồn Znews : https://znews.vn/mot-chung-toc-sat-da-post1530774.html