Từ mâu thuẫn nội bộ
Theo hồ sơ, Công ty Liên Kết thành lập ngày 12/12/2001, với vốn điều lệ 1 tỷ đồng, người đại diện pháp luật là ông Trịnh Trường Vỹ - Chủ tịch Hội đồng thành viên (HĐTV). Năm 2002, bà Nguyễn Thị Bích Phượng tham gia góp vốn 9,1 tỷ đồng (trong đó có 1.272 cây vàng, trị giá hơn 7,6 tỷ đồng) vào Công ty Liên Kết, nâng vốn điều lệ lên 13 tỷ đồng. Với việc sở hữu 70% vốn góp, bà Phượng được bầu làm Chủ tịch HĐTV thay cho ông Vỹ.
Thời điểm này, bà Đàm Vạn Cẩm (mẹ ông Vỹ) có khu đất rộng hơn 16.000m2 thuộc thửa số 4042, 4043 tờ bản đồ số 2, phường Tân Thới Nhất, Quận 12 (nay là phường Đông Hưng Thuận, TPHCM). Do có nhu cầu sử dụng khu đất này để thực hiện Dự án (DA) khu nhà ở, Công ty Liên Kết đã ký giấy thỏa thuận với bà Cẩm về việc lập hồ sơ đền bù thiệt hại về đất và thủ tục xin sử dụng đất. Theo giấy thỏa thuận ký ngày 13/6/2002, hai bên thống nhất đơn giá bồi hoàn thiệt hại về đất là 1,5 triệu đồng/m2. Tổng giá trị đền bù cho toàn bộ khu đất là hơn 24,7 tỷ đồng.
Khu đất dự án hiện rào kín cổng, vắng người qua lại
Do chỉ có vốn điều lệ 13 tỷ đồng, để có đủ tiền thanh toán đền bù cho bà Cẩm, ngày 26/9/2002, Công ty Liên Kết ký hợp đồng (HĐ) kinh tế số 23/LKC-2002 về việc huy động vốn của bà Cẩm số tiền 12 tỷ đồng với lãi suất 0,85%/tháng. Có xuất phiếu thu tiền số 03/09 ngày 30/9/2002 cho bà Cẩm.
Ngày 30/9/2002, bà Cẩm ký bản xác nhận về việc đã nhận đền bù hoa màu và đất, có xác nhận của UBND phường Tân Thới Nhất. Ngày 01/10/2002, Công ty Liên Kết đã lập phiếu chi số 01/10, thanh toán toàn bộ hơn 24,7 tỷ đồng cho bà Cẩm. Bà Cẩm có ký và ghi rõ họ tên trong phiếu chi này.
Ngày 07/01/2003, UBND TPHCM ban hành Quyết định (QĐ) số 06 "về thủ tục giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sư dụng đất để đầu tư xây dựng". Để phù hợp với hướng dẫn tại quyết định này, ngày 20/01/2003, Công ty Liên Kết và bà Cẩm ký lại giấy thỏa thuận về việc lập hồ sơ sử dụng đất và bồi hoàn. Ngày 26/3/2003, hai bên ký lại giấy xác nhận đã bồi hoàn. Những văn bản này đều có xác nhận của UBND phường Tân Thới Nhất.
Từ những hồ sơ trên, Công ty Liên Kết đã làm thủ tục xin sử dụng đất xây dựng khu nhà ở. Ngày 04/11/2003, UBND TPHCM ban hành QĐ số 4768 về việc thu hồi đất của bà Cẩm và tạm giao đất cho Công ty Liên Kết để chuẩn bị đầu tư xây dựng khu nhà ở.
Tuy nhiên, khi DA đang triển khai thì nội bộ Công ty Liên Kết xảy ra mâu thuẫn. Ngày 02/01/2004, ông Vỹ ký công văn số 01 gửi các cơ quan chức năng đề nghị ngừng thực hiện dự án và hủy bỏ QĐ số 4768, với lý do: "Nay qua xem xét, tính toán lại các yếu tố có liên quan đến hiệu quả đầu tư, Công ty Liên Kết nhận thấy tính không khả thi của dự án và có khả năng không mang lại hiệu quả đầu tư. Do đó, công ty chúng tôi quyết định ngừng việc thực hiện dự án và chấp nhận những phí tổn trong quá trình chuẩn bị đầu tư, đồng thời cùng với bà Cẩm tiến hành việc trả lại đất và hoàn lại tiền đền bù”.
Khi phát hiện sự việc, bà Phượng đã làm đơn gửi các cơ quan chức năng đề nghị giữ nguyên QĐ số 4768 để Công ty Liên Kết tiếp tục thực hiện DA. Sau khi xem xét, UBND TPHCM đã chấp thuận tạm thời giữ nguyên giá trị pháp lý của QĐ.
Sau khi xảy ra mâu thuẫn, ông Vỹ đã mang con dấu và nhiều giấy tờ pháp lý ra khỏi trụ sở Công ty Liên Kết. Do đó, bà Phượng đã khởi kiện ông Vỹ. Ngày 13/4/2004, TAND TPHCM thụ lý vụ án tranh chấp thành viên công ty số 74.
Vụ kiện này kéo dài 12 năm, đến ngày 29/3/2016, TAND TPHCM ban hành QĐ công nhận thỏa thuận số 277 với nội dung: Xác định bà Phượng là Chủ tịch HĐTV và là người đại diện pháp luật của Công ty Liên Kết. Con dấu và bản chính giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty được giao lại cho bà Phượng quản lý và sử dụng.
Bản đồ quy hoạch chi tiết dự án của Công ty Liên Kết
Đến tranh chấp kéo dài
Liên quan đến khu đất thực hiện DA, sau khi ông Vỹ đề nghị ngừng thực hiện và hủy QĐ thu hồi đất không thành, bà Cẩm đã khởi kiện Công ty Liên Kết, yêu cầu Tòa tuyên tất cả HĐ và giấy tờ giao dịch đều vô hiệu do giả tạo, khôi phục quyền sử dụng đất (QSDĐ) cho bà tại các thửa đất trên. Ngày 01/10/2004, TAND TPHCM đã thụ lý vụ án số 1962 về việc tranh chấp HĐ chuyển nhượng QSDĐ.
Theo bản án số 111/2025/DS-ST ngày 20/3/2025 của TAND TPHCM, bà Cẩm cho rằng, để giúp con hợp thức thủ tục đầu tư, bà và Công ty Liên Kết ký kết hàng loạt giấy tờ gồm: HĐ chuyển nhượng QSDĐ số 25/LKC-2003 ngày 24/3/2002, với nội dung bà Cẩm cam kết chuyển nhượng hơn 16.000m2 đất cho Công ty Liên Kết với giá hơn 25,1 tỷ đồng; Bản xác nhận ngày 30/9/2002 về việc nhận tiền đền bù hoa màu và đất; Phiếu chi số 010/10 ngày 31/10/2002; Giấy thỏa thuận ngày 20/01/2003 về việc lập hồ sơ sử dụng đất và bồi hoàn; Giấy xác nhận đã bồi hoàn ngày 26/3/2003.
Do không có việc giao nhận tiền nên hai bên ký HĐ kinh tế số 23/LKC-2002 ngày 26/9/2002 về việc huy động vốn kinh doanh số tiền 12 tỷ đồng; HĐ vay tài sản số 23b/LKC-2002 ngày 26/9/2002, số tiền hơn 12,7 tỷ đồng; Bản phụ lục HĐ số 35/LKC-2003 ngày 24/3/2003 về việc cho vay tài sản với số tiền hơn 25,1 tỷ đồng dựa trên kết quả đo đạc thực tế khu đất.
Ngoài các giấy tờ trên, ngày 06/5/2002, tại một Văn phòng Luật sư, bà Cẩm và ông Vỹ còn ký biên bản thỏa thuận về việc bà Cẩm cho phép ông Vỹ sử dụng khu đất để thực hiện DA. Số tiền hơn 25,1 tỷ đồng ông Vỹ phải hoàn trả cho bà Cẩm sau khi hoàn tất DA. Bà Cẩm cho phép nhận nợ bằng các HĐ vay tài sản, huy động vốn... tương ứng với số tiền hơn 25,1 tỷ đồng, lãi xuất 0,85%/tháng.
Bà Phượng cho rằng, có nhiều tài liệu bà Cẩm cung cấp cho Tòa không phải giấy tờ do Công ty Liên Kết ký kết mà do mẹ con bà Cẩm tự ký kết khi ông Vỹ chiếm giữ con dấu của công ty. Việc này dẫn tới hậu quả là bà Phượng có khả năng mất toàn bộ số tiền góp vốn vào Công ty Liên Kết. Đồng thời, Công ty Liên Kết có nguy cơ mất hơn 24,7 tỷ đồng đã bồi hoàn cho bà Cẩm.
Cụ thể, Công ty Liên Kết không ký HĐ chuyển nhượng QSDĐ số 25/LKC-2003. HĐ có nhiều chi tiết bất thường như: đầu HĐ ghi ngày 24/3/2002, cuối HĐ là... 24/3/2003, ngày chứng thực của UBND phường Tân Thới Nhất là 14/4/2003. Trong HĐ có thông tin về bản đồ hiện trạng vị trí đất tỷ lệ 1/500 lập ngày 12/6/2002, thông tin về hộ chiếu ông Vỹ được cấp ngày 11/3/2003. Tuy nhiên, nếu hợp đồng ký ngày 24/3/2002 là ký trước khi lập bản đồng hơn 2 tháng, trước ngày ông Vỹ được cấp hộ chiếu gần 1 năm. HĐ không có trong hồ sơ gửi các cơ quan chức năng để xin đầu tư dự án. Do đó, bà Cẩm cho rằng ký HĐ này để giúp con hợp thức thủ tục đầu tư dự án là không có cơ sở.
Đường vào dự án của Công ty Liên Kết
Bà Phượng khẳng định, Công ty Liên Kết không ký HĐ vay tài sản số 23b/LKC-2002 ngày 26/9/2002, với số tiền hơn 12,7 tỷ đồng. Khoản tiền này không có phiếu thu, không có trong báo cáo tài chính công ty năm 2002.
Ngoài ra, Công ty Liên Kết không ký bản phụ lục HĐ số 35/LKC-2003 ngày 24/3/2003 về việc cho vay tài sản. Thông tin trong bản phụ lục này cùng biên bản thỏa thuận ngày 06/5/2002 giữa bà Cẩm và ông Vỹ tại Văn phòng Luật sư đều có những điểm bất hợp lý về ngày tháng.
Tuy nhiên, TAND TPHCM vẫn tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Cẩm; khôi phục QSDĐ cho bà Cẩm; bà Cẩm được quyền liên hệ với UBND TPHCM để yêu cầu thu hồi QĐ 4768 và các văn bản có liên quan của các cơ quan chức năng đối với QSDĐ.
Công ty Liên Kết đã có đơn kháng cáo toàn bộ bản án số 111/2025/DS-ST ngày 20/3/2025 của TAND TPHCM vì cho rằng, bản án không khách quan, vi phạm tố tụng, tuyên án vượt quá yêu cầu khởi kiện, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty Liên Kết.
Theo Công ty Liên Kết, tại Khoản 3, Điều 34, Bộ Luật Tố tụng dân sự quy định: "Khi xem xét hủy quyết định hành chính, tòa án phải đưa cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền đã ban hành quyết định tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan".
Việc tuyên "bà Cẩm được quyền liên hệ với UBND TPHCM để yêu cầu thu hồi QĐ 4768 và các văn bản có liên quan của các cơ quan chức năng đối với QSDĐ", là vượt quá yêu cầu khởi kiện, do nguyên đơn không yêu cầu xét xử vấn đề này. Ngày 17/7/2025, TAND Tối cao tại TPHCM thông báo thụ lý vụ án số 35/2025/DSPT và đang chuẩn bị đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
ĐĂNG NGUYÊN