Trung tâm huyện Đạ Huoai, nơi có nhiều người dân Huế lập cư.
Thựchiện yêu cầu cách mạng sau dấu mốc lịch sử 30/4/1975, lực lượng thanh niên xung phong-thanh niên xung kích chuyển sang nhiệm vụ mới: khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng phát triển kinh tế. Thành phố Huế đã thành lập hai trung đoàn thanh niên xung kích với công tác tiền trạm, mở đường, khai hoang, dựng nhà để đón hàng ngàn hộ đồng bào Huế đến những vùng đất phía nam lập nghiệp.
Đó là những ngày mùa đông năm 1977. Sau khi xây dựng xong khu kinh tế mới Buôn Hồ (Đắk Lắk), anh Nguyễn Thái Long, Trung tá-Chính trị viên Thành đội, Thường vụ thành ủy Thành phố Huế được lệnh cùng các anh Nguyễn Cửu Sử, Nguyễn Văn Hữu, Trịnh Hùng Cường và một nhóm thanh niên xung kích lên đường vào Lâm Đồng khảo sát. Ngày 29/11/1977, mở tấm bản đồ tỷ lệ 1/25.000, anh Tám Bích, Trưởng ban kinh tế mới Lâm Đồng đã khoanh một vùng rộng lớn khoảng 40 cây số vuông, và nói: “Khu vực của các đồng chí đến khai hoang, trước đây là vùng 3 (một địa danh trong kháng chiến chống Mỹ), thuộc căn cứ kháng chiến Khu VI, mảnh đất này có bề dày truyền thống, thấm máu nhiều đồng chí, đồng bào... Ấm no là do bàn tay, khối óc của các đồng chí và đồng bào xứ Huế!”. Ngay sáng hôm sau, với chiếc la bàn trong tay, anh em cắt đường về vùng đất lạ mà anh Tám Bích đã khoanh tròn trên bản đồ hôm trước. Lần theo dòng suối Đạ Lây, đi sâu vào các triền núi, đoàn khảo sát gặp những vồng khoai nằm lút giữa một vùng dày đặc cỏ tranh và tre gai nhưng vẫn còn cho từng dây củ lớn; những gốc sắn già nua thân to như cây gỗ, những căn hầm đã sụt lở; những chiếc bi-đông đựng nước, dao rựa, nồi niêu đã gỉ sét. Đó là chứng tích nói lên tinh thần bất khuất, kiên cường của một vùng căn cứ kháng chiến oai hùng…
Anh Đỗ Đức Đủ, Trưởng ban liên lạc thanh niên xung kích thành phố Huế tại Lâm Đồng, kể lại: Ngày 17/12/1977, hai trung đoàn với 1.800 chiến sĩ bắt đầu lên đường sau lễ xuất quân tại điện Thái Hòa trong Đại Nội Huế. Vào đến nơi, vừa đặt ba-lô là anh chị em lao đi phát rừng, quy hoạch khu dân cư và ruộng đất ngay. Ưu tiên số một cho thời vụ sản xuất, nhà chưa có thì dựng tạm lán. Từ sáng tinh mơ đến trời tối mịt mọi người đều ở ngoài rừng. Nhiều đại đội còn huy động lực lượng phát rẫy dưới ánh trăng đêm. Một số nữ thanh niên ngày mới đến nghe tiếng vượn hú, hổ gầm còn ôm nhau run bắn lên mà khóc, rồi cũng quen dần, cũng đốn cây, phát rẫy, cắt tranh, dựng nhà như nam giới. Anh Đủ trầm ngâm: “Những ngày cuối đông đó mưa rừng sầm sập không ngớt. Trong những lán trại che tạm, anh chị em ướt như chuột lột. Đêm tối âm u, nhiều tiếng khóc sụt sùi của các cô gái trẻ hòa trong tiếng mưa và tiếng hát của những chàng trai vống lên vang động cả một khu rừng nguyên sinh. Những chàng trai cô gái thị thành đang học hành dở dang, có người chưa một lần cầm cây dao, cây rựa; trèo đèo lội suối, sên vắt cắn máu đỏ nhuộm tay chân, muỗi bu như trấu, nước độc, rắn độc, đói ăn, sốt rét, ghẻ lở đầy người. Sức khỏe mỗi ngày lại bị bào mòn, tóc con gái rụng từng nắm trôi theo dòng suối. Nhiều người đã ngã xuống khi đang cầm cuốc cầm dao như anh Võ Yên Thế, chị Lê Cảnh Thị Dạ Hương…”.
Tên dốc Mạ Ơi nhắc nhở về một thời mở đất.
Sau hơn một năm, hơn 500 ha rừng già, cỏ tranh, cỏ ống đã được đoàn thanh niên xung kích phát quang, dọn sạch để đưa vào trồng tỉa; việc mở đường, lập làng tạm ổn. Sau Tết Mậu Ngọ-1978, đoàn di dân đầu tiên với hơn 100 hộ gia đình, 700 nhân khẩu gồng gánh lên đường. Khi dân đến, chỉ có những cái lán dựng vội chỉ đủ tránh mưa. Giường chõng, bàn tủ, quang gánh, nồi niêu, cơm gạo và cả bàn thờ đều chất thành từng đống ngoài trời ướt át. Tiếng người già ho hắng, tiếng trẻ khóc, tiếng chó sủa, gà kêu sốt ruột, ầm ĩ cả một góc rừng. Ban chỉ huy xuống ăn ngày ở đêm động viên đồng bào. Anh chị em thanh niên thì người chặt gỗ, kẻ cắt tranh, xúm nhau dựng cho bà con những chiếc lán kiên cố. Chỉ vài ngày sau, những cái lán một mái được dựng lên tạm làm yên lòng mọi người. Rồi chính từ nền những chiếc lán ban đầu ấy, chín tháng sau, những căn nhà đã mọc lên và mỗi hộ một mảnh vườn vuông vức 1.000m2 đã bắt đầu đơm hoa, kết trái. Từ đợt đầu ấy, chừng hơn một năm sau, đã có 3.000 hộ đến lập cư trên đất vùng kinh tế mới Hương Lâm. Làng xóm dần khang trang. Tết Kỷ Mùi-1979, vườn nhà nào cũng rạo rực một luống hoa cúc. Mầu vàng của loài hoa thân thuộc như một sự kết nối thiêng liêng của người dân xứ Huế đi xây dựng vùng kinh tế mới với quê nhà cắt rốn chôn nhau bên dòng Hương Giang. Cùng với các loài hoa, bà con còn mang theo cả những bụi chuối, cây mít, giàn bầu, cây ớt chỉ thiên từ cố xứ vào…
Ngày nắng đẹp, tôi thả bộ qua những con đường dẫn vào những lối xóm Đạ Lây. Cái phong vị làng quê của người Huế đi xa làm cho khách ghé thăm thấy lâng lâng cảm xúc, muốn được hòa cảm cùng những người dân đã an cư bền vững trên mảnh đất Tây Nguyên. Người xứ Huế đi đâu cũng chọn mặt đất tốt cùng bàn tay lao động chuyên cần tô lên những mảnh vườn hoa trái sum suê. Ở xứ này, nhiều lối vào nhà dân không kín cổng cao tường mà để phóng khoáng không gian với những hàng chè tàu cắt tỉa đối xứng. Những cặp cây mai hai bên lối cửa nuôi dưỡng nhiều năm đã thành mai cổ thụ, dù xa Tết đã lâu mà những nụ vàng tươi rực rỡ vẫn bền. Mầu hoàng mai lấy giống từ Huế hòa cùng mầu vàng hoa cúc tạo nên một không gian được phối sắc quý phái. Đâu đó vườn ai, tôi thấy những cây thanh trà trĩu quả mà chắc là chủ nhân phải lấy giống từ ngoài quê vào.
Trong những nếp nhà vườn ấy vẫn giữ được nét kiến trúc thân quen, dù là quê kiểng nhưng vẫn phảng phất phong vị của xứ thần kinh. Nét gia phong rất đặc trưng của miền cố xứ vẫn được giữ vẹn. Người Huế, dù có đi đến góc biển chân trời thì cũng cứ mang theo phong tục tập quán, những lễ nghi tâm linh, sự ảnh hưởng lối sống từ thời chín Chúa mười ba Vua triều Nguyễn. Đi xa, người Huế giữ được nhiều tập tục cổ truyền hơn nhiều nhóm di dân khác; có tinh thần gắn kết gia tộc và tình yêu quê hương mãnh liệt, đôi lúc yêu đến mức bảo thủ.
Anh Nguyễn Minh Tánh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đạ Lây, cung cấp thông tin, trải qua 47 năm lập nghiệp quê mới, hiện nay xã Đạ Lây có tổng diện tích đất tự nhiên là 5.200 ha với chín thôn, tổng dân số là 6.196 nhân khẩu với 1.541 hộ. Kinh tế xã phát triển theo hướng đa ngành, nông nghiệp là nòng cốt. Những năm qua, Đạ Lây đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm để tạo sức cạnh tranh trên thị trường. Xã hiện là vùng cây ăn trái trọng điểm, với diện tích 549 ha gồm các cây chủ lực như sầu riêng, quýt, bưởi cùng với cây cao-su, dâu tằm, tầm vông, mía… Chăn nuôi cũng là một thế mạnh, người dân Đạ Lây có nhiều trang trại chăn nuôi tập trung, quy mô lớn; đàn trâu bò của xã hiện có 1.268 con, trên địa bàn xã có bốn trang trại nuôi heo với tổng đàn trên 72.000 con. Cùng với tổng diện tích gieo trồng hằng năm bình quân 3.213 ha là diện tích rừng kinh tế 1.584 ha. Thu nhập bình quân đầu người đạt 55 triệu đồng; giá trị thu hoạch trên một ha canh tác đạt khoảng 95 triệu đồng. Toàn xã hiện có trên 200 hộ sản xuất, kinh doanh, thương mại-dịch vụ cùng với nhiều quán ăn mang đậm bản sắc văn hóa ẩm thực Huế như cơm hến, bánh lọc, chả giò, bún bò đã tạo được sức hấp dẫn với khách miền xa ghé lại. Hiện xã đã có những sản phẩm được công nhận thương hiệu như bưởi da xanh, hạt điều rang muối, đặc biệt là chả giò và bánh lọc truyền thống…
Rời Đạ Lây, quê mới của những người con xứ Huế, qua đỉnh dốc Mạ Ơi, tôi dừng xe mở kính ngoái đầu nhìn lại. Đâu đó bên những cánh rừng, những vườn cây trái sum suê mát mắt hay ruộng lúa miên man là những giọng nói tiếng cười “rất Huế” xôn xao trong buổi chiều nắng hãy còn vương. Gần trọn nửa thế kỷ mang Huế đi xa, những người con Cố đô trên miền quê mới đã lập nên kỳ tích. Kỳ tích ấy không có gì to tát mà thật là đơn sơ, giản dị. Với tình yêu với hai miền quê, họ đã đổ mồ hôi, nước mắt để kiến tạo nên một vùng cư dân trù phú và ấm áp nghĩa tình giữa xứ sở đại ngàn từng là rừng thiêng nước độc ngày nào.
Bài và ảnh: UÔNG THÁI BIỂU