- Buổi sáng những ngày cuối Thu lãng đãng sang Đông ở vùng đất Thất Khê luôn có một thứ ánh sáng rất riêng. Nó không vàng rực rỡ như mùa nắng hạ, cũng chẳng hanh hao như những ngày cuối năm, mà là thứ ánh sáng mỏng nhẹ, đọng thành từng dải sương trong veo, chảy xuống sườn đồi rồi hòa cùng hơi đất quyện lên những thửa ruộng đang vào mùa gặt. Mùa cơm mới – người già trong bản vẫn gọi như thế, một mùa mà ai đi xa mấy cũng cố trở về cho kịp bữa cơm đầu tiên nấu từ hạt gạo bao thai trắng ngần vừa xay xát.
Bình trở về đúng vào những ngày ấy. Sau năm năm học và làm việc dưới thành phố, cô xin chuyển công tác về hẳn xã nhà, ngồi trên xe lòng cô vừa hồi hộp vừa nao nao một cảm giác khó tả. Chuyến xe khách từ thành phố đưa cô qua những khúc cua trên tuyến 4A, qua cả quãng chiều tím sẫm của vùng núi rừng đường 4. Khi chiếc xe dừng lại đầu xóm nơi cô sinh ra, Bình thấy như cả tuổi thơ, cả những mùa lúa chín năm nào ùa về, rộn lên trong lòng.
Trên con đường dẫn vào xóm, hương lúa mới xộc thẳng vào ngực khiến cô khựng lại. Đó vẫn là thứ hương nồng nàn, ngai ngái, thoang thoảng mùi khói bếp, hòa cùng mùi rơm khô lấm bùn non - thứ hương mà dù đi đâu Bình cũng mang theo trong ký ức.
Nhà cô nằm gần cuối xóm. Bước đến mở cánh cổng nhỏ, Bình nhìn thấy dáng mẹ khom khom trước sân, đang tuốt mấy bó lúa cuối cùng mà bà để dành làm lễ cơm mới.
Mẹ ngẩng lên, đôi mắt đục vì tuổi tác chợt sáng bừng.
“Về rồi đấy à con? Về đúng mùa cơm mới, tốt quá!”
Bình chạy lại đỡ lấy bó lúa nặng trong tay mẹ. Bó lúa vẫn còn nóng từ nắng chiều, các hạt thóc căng mẩy, vàng óng như dải tơ mật ong. Chạm vào nó, Bình bất giác thấy lòng mình ấm lạ.
Tối hôm ấy, nhà Bình làm lễ cơm mới. Một âu cơm trắng tinh từ giống lúa bao thai, cùng đĩa xôi nếp cái ong vàng mới gặt thơm dẻo được đặt trang trọng trên ban thờ. Ánh nến soi qua khói hương, gương mặt bố mẹ Bình hiện lên hiền từ như một bức tranh quê xưa.
Mỗi mùa cơm mới, bố Bình vẫn kể đi kể lại câu chuyện về hạt gạo trắng Thất Khê. Ông kể, ngày còn trẻ, mỗi chuyến đưa lúa xuống chợ huyện, ông đều tự hào vì gạo quê mình trắng ngần, thơm dịu, dù có để lâu thì nấu cơm vẫn dẻo. Người miền xuôi, người dưới phố chỉ cần ngửi qua đã biết gạo vùng đất Thất Khê – thứ gạo kết tinh từ mồ hôi người nông dân sống trên những cánh đồng mưa thuận gió hòa nơi phía Bắc của tỉnh.
Bình ăn bát cơm gạo mới mà cảm giác như ăn cả hương đất quê nhà. Hạt cơm dẻo quện, tròn vị, mùi thơm đượm lên từ lòng bát men sứ. Cô thấy cổ họng nghèn nghẹn. Năm năm đi xa, đã bao lần cô thèm một bát cơm như thế, thèm đến nỗi đôi khi phải mua tạm thứ gạo không rõ nguồn gốc ở chợ, nấu lên ăn mà chẳng thấy một chút hương quê nào.
Mai con đại điện gia đình mình ra nhà văn hóa thôn họp với các bác bàn về dự án bảo tồn nghề trồng lúa truyền thống nhé. Con thử xem giúp được gì cho quê mình thì giúp, mẹ nói, mắt ánh lên niềm hy vọng.
Bình gật đầu. Lúc rời thành phố, cô đã tự nhủ: về quê không chỉ là về nhà, mà còn là tìm lại chính mình.
Sáng hôm sau, xã tổ chức cuộc họp với đại diện các thôn và một số hộ nông dân tiêu biểu. Bình vui mừng đại diện cho gia đình đến dự. Nhìn quanh căn phòng nhỏ, Bình nhận ra nhiều gương mặt quen thuộc từng bế cô lúc còn bé. Họ già đi nhưng ánh mắt vẫn sáng, dáng ngồi vẫn vững chãi như những gốc cây rừng.
Đang say sưa nghe cán bộ xã trình bày về dự án, Bình thấy một dáng người cao gầy đứng cuối bàn. Anh mặc chiếc áo nâu bạc màu, vai dính chút bụi rơm. Khuôn mặt rám nắng nhưng đường nét thanh thoát. Khi anh ngồi xuống bên cạnh, Bình mới nhìn rõ. Đó là Duy – người anh, người bạn thuở từng cùng cô tắm suối, chăn trâu, cắt cỏ trên cánh đồng làng.
Cô mỉm cười.
“Lâu lắm rồi mới gặp lại anh đấy.”
Duy gật đầu, nụ cười hiền hơn cả nắng đầu mùa.
“Nghe tin em xin về hẳn xã làm việc, anh đoán kiểu gì cũng gặp. Quê mình nhỏ mà.”
Hóa ra sau khi học xong trung cấp nông nghiệp, Duy về làm cán bộ phụ trách nông – lâm của xã. Anh là người đi đầu trong mô hình canh tác không dùng thuốc hóa học, trồng lúa thơm truyền thống theo cách của người xưa: ủ giống bằng nước tro bếp, ngâm lúa bằng nước ngầm mát lành, và tuyệt đối không bê tông hóa bờ ruộng để giữ nguyên thổ nhưỡng.
Khi cuộc họp chuyển sang phần trao đổi kinh nghiệm, Duy đứng lên trình bày. Giọng anh trầm, chắc, nói năng mạch lạc. Anh đưa ra cách khôi phục giống lúa bản địa đang có nguy cơ bị thoái hóa, phân tích vai trò của nguồn nước trong vùng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ lại các thửa ruộng giáp sông để làm nơi bồi phù sa tự nhiên.
Bình lắng nghe, bất giác thấy trong lòng dâng lên niềm tự hào. Duy ngày xưa chỉ là cậu bé nghịch ngợm, thích thả trâu lang bạt khắp đồi nương. Vậy mà giờ đây anh đứng giữa căn phòng nhỏ ấy, mang trong mình khát vọng lớn: giữ lấy hạt gạo quê hương.
Chiều hôm đó, Duy dẫn Bình đi thăm cánh đồng của thôn. Lúa đã gặt gần hết, chỉ còn những gốc rạ vàng cháy nắng đứng trơ mình trong gió. Duy chỉ tay xuống mảnh ruộng còn sót lại một ít, bảo đó là giống lúa nếp cái ong vàng bản địa mà xã đang nhân rộng.
“Em xem, hạt nào hạt nấy căng mẩy thế này, chỉ cần trời không mưa to quá, năm nay chắc được vụ lớn.”
Bình cúi xuống, nhẹ tay vuốt những gié lúa cuối mùa, lòng trào lên cảm giác thân thuộc.
“Ở thành phố, người ta nói nhiều về hiện đại hóa, về máy móc. Nhưng chỉ khi về lại quê mình, em mới thấy hạt lúa cũng có linh hồn.”
Duy cười, ánh mắt sâu như ánh hoàng hôn tràn xuống ruộng.
“Lúa có linh hồn thật. Không tin thì em thử nhìn những người già trong bản mà xem. Họ gắn cả đời với hạt lúa, đến lúc nhắm mắt, tay vẫn như đang vân vê bẹ lúa đấy.”
Gió thổi, mang theo mùi rơm cháy và mùi đất nâu đã hong khô suốt mùa nắng. Bình ngẩng mặt nhìn bầu trời trong trẻo, thầm nghĩ: nếu quê hương là một dòng chảy, thì hạt gạo chính là giọt nước đầu nguồn.
Một tuần sau, thôn tổ chức lễ cơm mới. Từ sáng sớm, người trong thôn đã kéo nhau đến nhà văn hóa. Trên sân, mấy bà, mấy chị đang giã cốm bằng chày gỗ; dưới gốc cây sấu già, đám trẻ con vừa chạy vừa cười vang; còn đàn ông thì bày biện những sản vật của mùa: bó lúa nếp, chum gạo mới, đĩa bánh giày, bánh ngải, khẩu sli cùng vài mẻ bánh khảo vừa làm xong.
Bình được giao nhiệm vụ ghi lại hình ảnh và viết bài cho bản tin của xã. Cô bận rộn cả buổi, hết chụp ảnh lại phỏng vấn. Nhưng đến lúc tiếng trống lễ vang lên, mọi người cùng dâng bát cơm mới lên tổ tiên. Bình bỗng thấy sống mũi cay cay.
Người chủ lễ - một cụ già là người có uy tín trong bản, khấn vang: “Cơm mới thơm từ hạt gạo, thơm cả tấm lòng người giữ đất. Xin trời đất, tổ tiên phù hộ cho dân bản mùa sau thuận hòa, cho hạt gạo trắng vùng cánh đồng Thất Khê mãi giữ được hương vị của núi rừng này…”
Trong khoảnh khắc ấy, Bình nhận ra những giá trị gắn bó với quê hương không phải là những điều xa xôi hay to tát gì, mà chính là hơi ấm bốc lên từ bát cơm vừa xới, là tiếng chày giã cốm hòa cùng tiếng cười rộn rã, là đôi bàn tay chai sần nâng niu từng hạt thóc.
Bữa cơm cộng đồng sau lễ diễn ra ngay trên sân nhà văn hóa. Mọi người quây quần ăn những miếng thịt lợn quay, khau nhục, ăn bát cơm trắng dẻo, húp bát canh rau rừng ngọt mát. Duy ngồi cạnh Bình, trao cô một bát cơm gạo mới.
“Em ăn thử xem có giống cơm nhà em tối hôm nọ không?”
Bình đón lấy, mùi thơm bốc lên thoảng dịu.
“Thơm thật… nhưng hình như ngọt hơn.”
Duy cười:
“Vì em đang ăn bằng cả ký ức nữa mà.”
Câu nói của anh khiến Bình khẽ đỏ mặt.
Những ngày sau đó, Bình cùng Duy đi nhiều nơi: từ cánh đồng Thất Khê, Tràng Định – nơi có những thửa ruộng thẳng cánh cò bay, đến những nương lúa ở Quốc Khánh, Kháng Chiến. Họ ghi lại những câu chuyện của người dân, từ những bí quyết trồng lúa cổ truyền đến những thay đổi mà nông nghiệp hiện đại mang lại. Mỗi lần trở về, Bình đều cảm nhận rõ hơn sự gắn bó của mình với từng thửa ruộng, từng tấc đất, từng con người nơi đây.
Một chiều muộn, khi ánh hoàng hôn nhuộm đỏ dòng Kỳ Cùng, Bình và Duy đứng trên đám ruộng nhìn ra xa. Những đám mây phai dần sang màu hồng tím, phản chiếu lên mặt nước như những tấm lụa khuấy động, lóng lánh.
Bình nói, giọng dịu dàng:
“Em từng nghĩ mình phù hợp với nhịp sống thành phố. Nhưng hình như không phải. Mỗi lần đứng ở đây, em thấy mọi thứ yên bình quá.”
Duy nhìn cô hồi lâu rồi khẽ nói:
“Người ta bảo, ai sinh ra từ đất này thì sớm muộn cũng quay về. Vì quê hương giống như hạt gạo vậy – tưởng nhỏ bé nhưng luôn giữ được vị ngọt ở giữa lòng.”
Bình quay sang nhìn anh, ánh mắt chạm nhau giữa lúc mặt trời vừa lăn xuống sau dãy núi. Nụ cười trên môi, Duy chân thành đến mức khiến tim cô khẽ rung lên.
Ngày Bình gửi bài báo đầu tiên về lễ cơm mới lên tòa soạn báo, cô nhận được lời khen ngợi rằng bài viết có chiều sâu, giàu chất văn hóa địa phương và thấm đượm tình người. Cô vui, nhưng niềm vui ấy dường như càng đầy đủ hơn khi Duy cầm tờ báo chạy đến nhà trong buổi chiều đầy gió.
“Em viết hay lắm, Bình à. Đọc xong bài, anh thấy như mình đang bước vào cả một mùa vàng.”
Cô mỉm cười:
“Chỉ là cảm xúc thật thôi.”
Duy nhìn cô, ánh mắt ấm như nắng.
“Nếu mỗi năm, mùa cơm mới đều có người kể thay tiếng lòng cho quê hương như em… thì tốt quá.”
Khoảnh khắc ấy, Bình chợt hiểu: tình yêu quê hương đôi khi bắt đầu từ những điều rất giản dị - từ hạt cơm trắng trên bàn ăn, từ giọt mồ hôi giữa ruộng đồng, từ một tiếng nói chân thành, và từ một người luôn đứng đó, đợi mình trở về.
Mùa cơm mới năm ấy khép lại bằng một cơn mưa rào bất chợt. Những giọt mưa rơi xuống mái ngói, xuống triền đồi, xuống lòng bàn tay Bình đang mở rộng. Cô đứng giữa khoảng sân, mỉm cười như vừa thấy trước mắt mình con đường dài phía trước.
Con đường ấy dẫu còn nhiều gian nan, nhưng giờ đã có một điều chắc chắn: Bình thuộc về nơi này. Thuộc về mùi rơm mới, thuộc về hương gạo vùng cánh đồng Thất Khê, thuộc về tiếng ngầm chảy qua ruộng, và thuộc về cả ánh mắt luôn dõi theo mình mỗi mùa vàng trở lại.
Và khi mùa lúa mới bắt đầu gieo xuống, Bình biết rằng cô cũng đang gieo một mùa yêu thương của chính mình – trong đất, trong lúa, và trong trái tim của người ở lại.
Truyện ngắn của Trần Anh