Mưa
lòng mẹ
chín tháng mười ngày con quẫy đạp
thằng út tiếp bước thằng cả, thằng hai, thằng ba, thằng tư
những đứa trước biền biệt nơi mô mà Trường Sơn vội choàng
sương trắng
đêm tân hôn chưa kịp chặt vòng ôm chuỗi nhớ thương
khắc khoải bóng hình
li biệt
con lớn lên nhìn núi tưởng dáng hình cha
mười sợi mưa ngón tay vuốt lên mười nghìn ngôi mộ
linh cảm
"Liệt sĩ chưa xác định được tên"
người đàn bà lưng còng ôm ghì ngôi mộ hình chiếc ba lô
không muốn tuột mất cảm giác chưa kịp chặt vòng ôm
đụn mây ngang trời hình chiếc gối đêm tân hôn bồng bềnh
xuống thấp
Mưa đất trời hay nước mắt
ướt sũng cuộc trường chinh
phía mười nghìn ngôi sao lửa.
Phan Văn Chương
Mỗi chuyến đi thực tế, Phan Văn Chương lại có thêm nguồn tư liệu để sáng tác thơ, văn - Ảnh: Nh.V
Tác giả Phan Văn Chương sinh năm 1952 tại xã Quảng Trạch, tỉnh Quảng Trị. Từng là người lính, sau này là nhà giáo, song lúc nào Phan Văn Chương cũng có niềm đam mê đặc biệt với thơ, xem thơ là người bạn tâm giao để gửi gắm nỗi niềm tâm sự. Trong hoạt động sáng tác, ông có rất nhiều bài thơ về đề tài người lính, thương binh, liệt sĩ. Thơ ông được đăng tải nhiều trên các báo, tạp chí từ trung ương đến địa phương.
Nói về hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Mưa nghĩa trang Trường Sơn”, tác giả Phan Văn Chương cho hay: Trong một lần, cùng các văn nghệ sĩ là cựu chiến binh của Hội VHNT tỉnh đi tham quan các di tích lịch sử, chiến trường xưa, chúng tôi đã đến Thành Cổ, sân bay Tà Cơn, Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn... Vừa đến nghĩa trang, trời đổ mưa tầm tã. Dù không ai có áo mưa, cả đoàn vẫn quyết vào thắp hương, bày tỏ lòng thành kính đối với các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Ai nấy đều rất xúc động bởi chúng tôi là những người lính từng vào sinh, ra tử trong chiến tranh nhưng may mắn là được sống trong hòa bình và chứng kiến sự đổi thay của đất nước, trong khi nhiều đồng đội mãi mãi nằm lại nơi chiến trường. Giữa nghĩa trang, tôi thấy nhiều người phụ nữ, họ là mẹ, là vợ, người thân của các liệt sĩ thắp hương trên các phần mộ trong cơn mưa lạnh. Từ những giọt mưa của trời đất, tôi liên tưởng đến mưa của lòng người nên khi trở về, cảm xúc ấy đã thôi thúc tôi viết ngay bài thơ này.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã đồng hóa cơn mưa với nỗi lòng của người mẹ. Từ ký ức về sự sống căng tràn “chín tháng mười ngày con quẫy đạp”, vần thơ xiết vào thực tại của sự hy sinh: “Thằng út tiếp bước thằng cả, thằng hai, thằng ba, thằng tư/những đứa trước biền biệt nơi mô mà Trường Sơn vội choàng sương trắng”.
Cách gọi mộc mạc, "thằng út, thằng hai, thằng ba, thằng tư, thằng cả" chính là tiếng gọi thân thương, ruột thịt của người mẹ nông thôn. Mỗi người con, mỗi lần "quẫy đạp" mang bao hy vọng, niềm tin của mẹ giờ đây đã "biền biệt nơi mô". Câu hỏi "nơi mô" là một tiếng kêu não ruột, đặc quánh thổ ngữ miền Trung. Mẹ muốn hỏi rằng, giờ này các con ở đâu, để lại mẹ với Trường Sơn “choàng sương trắng”? Trường Sơn giờ đây không chỉ là chiến trường xưa, mà còn là người mẹ thứ hai đang ôm ấp, che chở cho những người con mãi tuổi thanh xuân.
Bài thơ không chỉ nói về tình mẹ, mà còn khai thác sâu vào một bi kịch khác, đó tình yêu lứa đôi bị chiến tranh chia cắt. Nỗi đau ấy được dồn nén trong những câu thơ: "đêm tân hôn/ chưa kịp chặt vòng ôm chuỗi nhớ thương/khắc khoải bóng hình li biệt". Hai chữ "vòng ôm" chính là trọng tâm của nỗi đau này. Đó là sự hụt hẫng, dang dở, một món nợ của hạnh phúc. Người ra đi mang theo nỗi nhớ thương. Người ở lại cũng sống với "bóng hình li biệt". Chiến tranh đã tước đi của họ cái quyền cơ bản nhất, đó là quyền được yêu thương trọn vẹn. Đứa con lớn lên không biết mặt cha mà chỉ có thể hình dung cha qua "dáng hình núi”...
Với tác giả Phan Văn Chương, viết về đề tài người lính là cách để ông bày tỏ sự tri ân với thế hệ cha ông - Ảnh: Nh.V
Từng giọt mưa, từng đôi bàn tay của những người vợ, người mẹ "vuốt" lên những ngôi mộ như để thỏa nỗi nhớ thương, khát khao được chạm vào chồng, con của mình. Nỗi đau càng thêm quặn thắt khi giữa "mười nghìn ngôi mộ" ấy, người thân chỉ có thể dựa vào "linh cảm" để tìm người nhà tại những ngôi mộ có dòng chữ "Liệt sĩ chưa xác định được tên".
Hình ảnh “người đàn bà lưng còng ôm ghì ngôi mộ hình chiếc ba lô/không muốn tuột mất cảm giác chưa kịp chặt vòng ôm” vừa giản dị, vừa lay động sâu xa. “Người đàn bà lưng còng" ấy là ai? Là người mẹ mất con, hay người vợ trong "đêm tân hôn" dang dở? Dù là ai thì tấm “lưng còng” ấy cũng chỉ tìm thấy người thân của mình qua "chiếc ba lô" của người lính. Vòng tay ôm ấy là nỗ lực giữ lại chút cảm giác gần gũi giữa người sống và người đã hóa thành đất. Thiên nhiên một lần nữa đồng cảm với tâm trạng của người ở lại. “Đụn mây ngang trời hình chiếc gối đêm tân hôn bồng bềnh xuống thấp”. Quá khứ và hiện tại đã hòa làm một. Sự sống và cái chết không còn ranh giới. Nghĩa trang Trường Sơn, dưới cơn mưa trong thơ Phan Văn Chương đã trở thành một cuộc hội ngộ thiêng liêng, một sự giao hòa vĩnh cửu.
Người phụ nữ trong thơ là trung tâm của nỗi mong chờ, hy sinh và gánh chịu, từ lúc sinh con, chờ con, rồi mất con, ngóng chồng. Trọn cuộc đời mẹ là chuỗi ngày sống giữa đợi chờ và tiếc thương...
Cái hay của bài thơ là không kết thúc trong nước mắt. Hình ảnh “phía mười nghìn ngôi sao lửa” như một lời tôn vinh, biến sự hy sinh thành ánh sáng bất tử. Các anh đã hóa thành những ngôi sao lửa, bất tử trên bầu trời Tổ quốc, sưởi ấm "lòng mẹ" trong những cơn mưa, để soi đường cho "cuộc trường chinh" của dân tộc đi tới thắng lợi. Đó chính là sự cống hiến vĩ đại nhất. Họ đã lấy cái chết của mình để thắp lên sự sống vĩnh hằng.
Bằng giọng thơ mềm mại, giản dị, giàu cảm xúc, Phan Văn Chương đã khắc họa một không gian thấm đẫm nỗi nhớ, sự hy sinh và lòng biết ơn. Bài thơ mở ra bức tranh nhiều chiều về những mất mát thiêng liêng, người mẹ dâng hiến đứa con, người lính hiến dâng tuổi trẻ, tình yêu và cả tên tuổi của mình cho Tổ quốc. Sự hòa quyện giữa nỗi đau và tự hào, mất mát và bất tử ấy nhắc nhở chúng ta thấm thía hơn giá trị của hòa bình. Từ đó, nhắc nhở thế hệ hôm nay hãy hướng về nguồn cội, nuôi dưỡng lòng biết ơn và tiếp nối hành trình ấy từ trái tim thành kính bằng những hành động cụ thể để trân trọng và gìn giữ giá trị của độc lập, tự do.
Nhật Văn