Chiều 23-9, Viện Xã hội học và Tâm lý học (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức hội thảo "Mức sinh ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp chính sách", với sự tham dự đông đảo các chuyên gia, nhà quản lý.
Tại hội thảo, nhiều kết quả nghiên cứu mới nhất về mức sinh và các yếu tố tác động đến chất lượng dân số đã được công bố.
PGS Nguyễn Đức Minh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Ảnh: Nguyên Bình
Mức sinh thấp nhất sau 63 năm
Theo PGS-TS Nguyễn Đức Minh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, những năm 1970, phụ nữ Việt Nam trung bình sinh 5 con. Sau nhiều nỗ lực thực hiện chính sách giảm sinh, đến năm 2006, Việt Nam đã bước vào giai đoạn mức sinh thay thế (2,01 con/phụ nữ) và duy trì ổn định trong nhiều năm.
Tuy nhiên, đến năm 2023, mức sinh chỉ còn 1,96 con/phụ nữ – thấp nhất trong 63 năm, đánh dấu sự sụt giảm mạnh về mức sinh, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có mức sinh thấp nhất Đông Nam Á.
PGS-TS Nguyễn Đức Minh nhấn mạnh, tại nhiều đô thị và tỉnh phát triển, mức sinh đã giảm dưới mức thay thế, có nơi chỉ còn dưới 1,5 con/phụ nữ; trong khi nhiều tỉnh miền núi phía Bắc lại trên 2,5 con/phụ nữ.
"Sự chênh lệch này, cùng với già hóa dân số, mất cân bằng giới tính khi sinh và chất lượng dân số chưa cao, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải điều chỉnh chính sách theo hướng toàn diện, bền vững"- PGS Minh nói.
Cùng quan điểm này, PGS-TS Chu Văn Tuấn, Viện trưởng Viện Xã hội học và Tâm lý học, cảnh báo xu hướng mức sinh thấp kéo dài có thể kéo theo suy giảm dân số, thiếu hụt lao động, đẩy nhanh già hóa và gia tăng áp lực an sinh xã hội.
Mức sinh giảm chủ yếu do ngày càng nhiều phụ nữ trì hoãn sinh con
Theo ông Tuấn, ở nhiều tỉnh, thành phố, mức sinh đã giảm dưới mức thay thế, trong khi một số nơi vẫn cao hơn trung bình cả nước, gây chênh lệch đáng kể giữa các vùng miền.
Hiện, mức sinh ở khu vực Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải miền Trung giảm rất thấp, trong khi nhiều tỉnh miền núi phía Bắc và Đồng bằng sông Hồng vẫn cao. Điều này tác động trực tiếp đến chất lượng dân số và phát triển xã hội.
PGS Tuấn nhấn mạnh, kinh nghiệm quốc tế cho thấy khi mức sinh đã xuống thấp thường rất khó nâng trở lại, chi phí khuyến sinh cao nhưng hiệu quả hạn chế. Do đó, việc sớm có chính sách ổn định mức sinh, giảm tảo hôn, cân bằng giới tính và chuẩn bị cho giai đoạn già hóa dân số là yêu cầu cấp bách.
Mức sinh giảm do phụ nữ ngày càng chậm sinh con
Bổ sung thông tin về thực trạng, PGS-TS Nguyễn Đức Vinh, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, cho biết mức sinh trong nước đang giảm sâu và chênh lệch lớn giữa các vùng. Nếu năm 2014 có 16 tỉnh, thành có mức sinh (TFR) trên 2,5 con thì đến 2024 chỉ còn 6 tỉnh.
"Thống kê cho thấy từ năm 1989 đến năm 2014, mức sinh của Việt Nam giảm chủ yếu nhờ hạn chế sinh con thứ ba trở lên. Nhưng giai đoạn năm 2014 - 2024, mức sinh tiếp tục giảm chủ yếu do ngày càng nhiều phụ nữ trì hoãn hoặc chậm sinh con thứ nhất và thứ hai"- ông Vinh dẫn chứng.
Nhiều vấn đề về mức sinh được đặt ra tại hội thảo
Trung bình số con mong muốn của nam giới là 2,2, của nữ là 2,1. Tuy nhiên, số con dự định sinh thực tế thường thấp hơn đáng kể so với mong muốn. Đáng chú ý, tại Sóc Trăng và Cà Mau, phụ nữ mong muốn trung bình dưới 2 con – thậm chí còn thấp hơn cả số con dự định sinh.
Theo PGS Vinh, thực trạng này đặt ra nhiều câu hỏi: Nên khuyến sinh toàn quốc hay chỉ ở nơi mức sinh thấp? Có nên duy trì mục tiêu "mỗi cặp vợ chồng nên có đủ 2 con"? Chính sách ưu tiên tuyên truyền hay hỗ trợ tài chính thường xuyên? Ngoài ra, nhà ở, nhà trẻ, trường học, y tế và hỗ trợ sinh sản cũng cần được tính đến để duy trì mức sinh hợp lý.
Tại hội thảo, nhiều chuyên gia đề xuất cần bãi bỏ các quy định về giảm sinh, thay vào đó tập trung tăng cường chính sách hỗ trợ, khuyến khích sinh con và chăm sóc gia đình.
N.Dung