Theo báo cáo mới nhất của Bộ Xây dựng và các địa phương, tính đến ngày 15/7, cả nước đã hoàn thành 103.717 căn nhà ở xã hội. Hiện có 111.622 căn đang được khởi công và xây dựng, cùng 418.220 căn đã được chấp thuận chủ trương đầu tư.
Riêng trong năm 2025, đến thời điểm hiện tại, đã có 36.962 căn nhà ở xã hội được hoàn thành, đạt khoảng 37% so với chỉ tiêu 100.275 căn của cả năm.
Theo Đề án phát triển nhà ở xã hội giai đoạn 2021-2030 do Chính phủ phê duyệt, tổng nhu cầu là 1.062.200 căn. Như vậy, để đạt mục tiêu 1 triệu căn nhà ở xã hội vào năm 2030, Việt Nam cần đầu tư và hoàn thành thêm khoảng 428.641 căn trong thời gian còn lại của giai đoạn.
Mục tiêu một triệu căn khả thi, nhưng cần đánh giá lại nhu cầu thực tế
Từ những kết quả trên, GS. Đặng Hùng Võ - nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường khẳng định, số lượng dự án nhà ở xã hội đang triển khai và chuẩn bị triển khai cho thấy hoàn toàn có khả năng đáp ứng mục tiêu xây dựng một triệu căn nhà ở xã hội vào năm 2030.
"Tôi cho rằng điều này là khả thi. Với tiến độ hiện tại, mục tiêu một triệu căn hoàn toàn có thể đạt được", ông Võ nói.
Tuy nhiên, ông Võ cũng lưu ý, đạt được một triệu căn nhà ở xã hội chưa hẳn đồng nghĩa với việc giải quyết dứt điểm vấn đề nhà ở cho người thu nhập thấp, chúng ta cần đánh giá lại nhu cầu thực sự về nhà ở xã hội để xác định liệu một triệu căn có đủ đáp ứng nhu cầu hay không.
Mục tiêu xây dựng 1 triệu căn nhà ở xã hội đến năm 2030 được đánh giá là khả thi với tiến độ hiện nay (Ảnh minh họa)
Từ góc nhìn so sánh quốc tế, ông Đặng Hùng Võ cho rằng, khái niệm "nhà ở xã hội" theo nghĩa bao cấp toàn phần như ở Việt Nam hiện chỉ tồn tại ở một số nước có quy mô dân số nhỏ hoặc thu nhập quốc dân rất cao, như Singapore, Brunei hay Hàn Quốc. Ở các quốc gia phát triển đông dân như Mỹ, Anh, Pháp hay Nhật Bản, khái niệm nhà ở xã hội không còn mang tính bao cấp, mà được thay thế bằng mô hình "nhà ở phù hợp với thu nhập", tức là nhà ở có giá thành tương ứng với khả năng chi trả của người dân.
Cũng theo vị Giáo sư này, Việt Nam không có đủ nguồn lực để nhà nước bao cấp toàn bộ như mô hình của Singapore hay Brunei, nơi Nhà nước có thể trực tiếp xây dựng và bán nhà cho dân. Ở Việt Nam, Nhà nước chỉ hỗ trợ về đất đai, còn lại phải dựa vào khu vực tư nhân để phát triển nhà ở xã hội”.
Sự khác biệt giữa "nhà ở xã hội" và "nhà ở phù hợp với thu nhập" là rất rõ ràng. Trong khi nhà ở xã hội mang tính chất trợ cấp trực tiếp thì nhà ở phù hợp với thu nhập là sản phẩm của thị trường, có sự hỗ trợ gián tiếp của Nhà nước thông qua chính sách thuế hoặc khuyến khích các tổ chức xã hội, doanh nghiệp xã hội tham gia.
Hiện nay, nguồn lực ngân sách của Việt Nam không đủ để bao cấp toàn bộ việc xây dựng nhà ở xã hội. Do đó, chính sách chủ yếu là hỗ trợ về đất đai, ví dụ như cho mượn đất xây nhà và chỉ thu tiền sử dụng đất nếu nhà ở được bán cho người không thuộc diện thụ hưởng.
GS. Đặng Hùng Võ - nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
Ông Võ chỉ rõ nghịch lý đáng lo ngại hiện nay, đó là cơ chế tiếp cận nhà ở xã hội chưa thực sự đến được đúng đối tượng. Nhiều dự án nhà ở xã hội bán ra nhưng không có người mua, trong khi ở các dự án khác thì lại xuất hiện hình ảnh xe ô tô hạng sang đậu trước cổng. Điều này thể hiện cơ chế xét duyệt hiện tại chưa đủ chặt chẽ, dẫn tới tình trạng đầu cơ, mua nhà ở xã hội để tích trữ tài sản, thay vì phục vụ người thực sự thiếu nhà ở, thu nhập thấp, nhà chật chội.
Một nguyên nhân khác, theo ông Võ, là việc quản lý thu nhập của người dân hiện nay còn nhiều bất cập: “Nhiều người chính thức có thu nhập rất thấp, nhưng thu nhập “tay trái” thì cực kỳ mạnh. Chúng ta chưa kiểm soát được thu nhập thực tế nên việc xét duyệt quyền mua nhà ở xã hội dễ bị lợi dụng”.
Mặt khác, việc phát triển nhà ở xã hội hiện nay chủ yếu do doanh nghiệp tư nhân đảm nhiệm, dẫn đến khó kiểm soát giá thành. Ông Võ dẫn chứng: “Giá nhà ở xã hội đã lên tới 20 triệu đồng/m2. Với mức giá này, gọi là nhà ở xã hội” nhưng người thu nhập thấp vẫn không thể tiếp cận được. Trong khi đó, Nhà nước không thể kiểm soát giá bán do đây là sản phẩm của khu vực tư nhân”.
Trước thực trạng trên, nếu không có giải pháp quản lý hiệu quả, các dự án nhà ở xã hội có thể bị “biến dạng”, mang danh nghĩa xã hội nhưng thực chất lại phục vụ cho mục tiêu thương mại.
“Tư nhân làm thì chắc chắn họ có mục tiêu lợi nhuận. Nếu không kiểm soát chặt, họ sẽ “đeo cái biển” nhà ở xã hội để đạt được mục tiêu của họ”, ông Võ cảnh báo.
Từ thực tế đó, GS. Đặng Hùng Võ cho rằng, cần rà soát lại toàn bộ chính sách nhà ở xã hội, từ khâu xác định nhu cầu thật sự, đến cơ chế lựa chọn đối tượng, hình thức hỗ trợ, vai trò của Nhà nước và doanh nghiệp, để đảm bảo các dự án không chỉ hoàn thành về số lượng mà còn thực sự đúng đối tượng, đúng mục tiêu.
Gỡ rào cản vốn và thủ tục để đạt mục tiêu 1 triệu căn nhà ở xã hội
TS. Nguyễn Trí Hiếu, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Thị trường Tài chính và Bất động sản Toàn Cầu cho rằng, hiện nay, cả nhà đầu tư lẫn người dân đều gặp nhiều rào cản trong việc tiếp cận nhà ở xã hội.
Với doanh nghiệp, trở ngại lớn đến từ việc thiếu vốn, quy định pháp lý rườm rà và đặc biệt là chính sách khống chế lợi nhuận ở mức quá thấp. Trong khi tỷ suất lợi nhuận khoảng 20% được xem là mức tối thiểu để đảm bảo hấp dẫn trong lĩnh vực bất động sản, thì giới hạn 10% khiến nhiều doanh nghiệp không mặn mà, chỉ làm vì trách nhiệm xã hội.
Do đó, cần nới rộng biên độ lợi nhuận, đồng thời tháo gỡ các điều kiện ràng buộc để gói nhà ở xã hội có thể hấp dẫn hơn và thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia, từ đó tăng nguồn cung cho thị trường.
TS. Nguyễn Trí Hiếu, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Thị trường Tài chính và Bất động sản Toàn Cầu
Về phía người dân, với GDP bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp so với thế giới, giá nhà ở xã hội ngày càng tăng, tạo thêm áp lực. Trước đây, người dân có thể mua căn hộ tại thành phố với giá khoảng 1-2 tỷ đồng, nhưng hiện nay, mức giá trung bình đã tăng lên 4-5 tỷ đồng. Dù đã có gói tín dụng 120.000 tỷ đồng, nhưng lãi suất còn cao so với thu nhập, trong khi giá nhà ở xã hội không ngừng tăng, khiến khả năng mua nhà trở nên xa vời với phần lớn người thu nhập thấp.
Ông Hiếu cho rằng, hiện tại, rất nhiều người dân không đáp ứng đủ điều kiện vay, do giá nhà cao trong khi thu nhập còn thấp. Do đó, cần có các chương trình tài chính đồng hành, với lãi suất thấp và thời gian vay dài, điều kiện linh hoạt hơn thì mới có thể thu hút người dân tham gia vay mua nhà ở xã hội.
Để đạt được mục tiêu xây dựng 1 triệu căn nhà ở xã hội đến năm 2030, theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, cần có một chiến lược tổng thể và nhất quán từ trung ương đến địa phương, đồng thời gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương. Trước hết, phải rút ngắn thủ tục hành chính, đơn giản hóa các quy trình xét duyệt dự án, cấp phép đầu tư để doanh nghiệp có thể triển khai nhanh hơn. Việc bố trí quỹ đất sạch cũng phải được thực hiện chủ động, minh bạch, với ưu tiên rõ ràng cho các dự án nhà ở xã hội, đặc biệt tại khu vực đô thị và khu công nghiệp.
Bên cạnh đó, cần xây dựng một cơ chế tín dụng ổn định, dài hạn và linh hoạt hơn. Các chương trình vay ưu đãi nên có thời hạn kéo dài ít nhất 15-20 năm, với lãi suất thực sự thấp và dễ tiếp cận. Ngân hàng thương mại tham gia phải có trách nhiệm chia sẻ với người dân và không đặt quá nhiều điều kiện khắt khe.
“Cần mở rộng đối tượng thụ hưởng chính sách nhà ở xã hội phù hợp với thực tế thu nhập và nhu cầu đa dạng của người dân hiện nay. Song song với đó là nới trần lợi nhuận hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đầu tư. Khi doanh nghiệp có động lực, người dân có thể tiếp cận vốn, quỹ đất được chuẩn bị sẵn, thì mục tiêu 1 triệu căn hoàn toàn có thể đạt được trong vòng 5 năm tới”, TS. Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh.
Chung Thủy/VOV.VN