PV: Việc Ngân hàng Nhà nước vừa công bố chủ động nâng hạn mức tín dụng cho các tổ chức tín dụng mà không cần đề xuất từ phía ngân hàng đã tác động thế nào đến dòng chảy vốn và khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng trên 8% năm 2025, thưa ông?
TS. Nguyễn Đức Độ: Trước tiên, việc nới chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm 2025 và giao hạn mức cho các ngân hàng thương mại trong một lần ngay từ đầu năm, đã tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại chủ động tăng cường hoạt động cho vay.
Các số liệu thống kê cho thấy, quy mô tín dụng của nền kinh tế tính đến ngày 30/6/2025 đạt 17,2 triệu tỷ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm 2024 và tăng 19,32% so với cùng kỳ, tức cả hệ thống hoàn thành gần 2/3 hạn mức chỉ trong khoảng nửa thời gian.
Đây là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần đưa GDP trong 6 tháng đầu năm 2025 tăng 7,52% so với cùng kỳ, cao nhất kể từ năm 2011.
Việc nới chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cùng sự chủ động của các ngân hàng thương mại cũng là nguyên nhân khiến tín dụng bất động sản tính đến ngày 31/5/2025 tăng 36% cùng kỳ. Trong bối cảnh thị trường bất động sản gặp nhiều khó khăn về vốn như vừa qua, việc bổ sung nguồn lực này giúp các doanh nghiệp cơ cấu lại nợ, hoàn thiện các dự án còn dở dang, tạo thêm việc làm cho người lao động, kích cầu các ngành sản xuất như vật liệu xây dựng, sản xuất đồ nội thất…
Nói chung, các tác động của sự điều chỉnh chính sách tín dụng vừa qua tới nền kinh tế nửa đầu năm 2025 là tích cực.
PV: Tăng trưởng tín dụng đang được đẩy mạnh để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng có ý kiến lo ngại về rủi ro lạm phát và nợ xấu phát sinh. Ông nhìn nhận thế nào về quan điểm này, đặc biệt trong bối cảnh dòng vốn có xu hướng chảy vào nhiều thị trường tài sản?
TS. Nguyễn Đức Độ: Khi tăng trưởng tín dụng đạt mức cao, việc quan tâm đến các rủi ro về nợ xấu, lạm phát là hoàn toàn cần thiết. Hiện phần vốn tăng thêm chảy khá nhiều vào các thị trường tài sản, nên sức ép đến lạm phát giá cả hàng tiêu dùng chưa lớn.
Còn về nợ xấu, các ngân hàng thương mại cần giám sát chặt chẽ việc doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực được tăng thêm này như thế nào. Nếu tiền được đầu tư vào các dự án có triển vọng, nợ xấu sẽ giảm và ngược lại, nếu tiền được bơm vào các dự án không có triển vọng, nợ xấu sẽ gia tăng. Nói cách khác, rủi ro của việc bơm tiền vào nền kinh tế nói chung và thị trường bất động sản nói riêng phụ thuộc vào việc các doanh nghiệp sử dụng nguồn lực này hiệu quả hay không.
Tín dụng mới tăng tốc trong thời gian ngắn nên mức độ rủi ro chưa cao. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng cao có thể sẽ gây nên lạm phát và nợ xấu nếu chính sách này được duy trì trong thời gian dài.
Bỏ trần tín dụng và "thế lưỡng nan" của Ngân hàng Nhà nước
"Khi bỏ hạn mức tín dụng, các ngân hàng thương mại sẽ đua nhau huy động vốn để cho vay. Lúc này, Ngân hàng Nhà nước rơi vào thế "lưỡng nan". Nếu tăng cung tiền để đáp ứng nhu cầu vốn của các ngân hàng thương mại, lạm phát sẽ gia tăng. Tuy nhiên, nếu Ngân hàng Nhà nước kiểm soát chặt chẽ cung tiền để kiềm chế lạm phát, lãi suất sẽ gia tăng. Một số lĩnh vực như bất động sản có thể chịu được lãi suất cao, nhất là trong chu kỳ giá lên, nhưng nhiều doanh nghiệp sản xuất lại không thể chịu được lãi suất cao do biên lợi nhuận thấp" - TS. Nguyễn Đức Độ.
PV: Liên quan đến chính sách điều hành tín dụng, vừa qua, Ngân hàng Nhà nước được đề nghị nghiên cứu bỏ hạn mức tín dụng. Theo ông, Ngân hàng Nhà nước có thể sử dụng các công cụ nào để kiểm soát các rủi ro về lạm phát, nợ xấu?
TS. Nguyễn Đức Độ: Để kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng và lạm phát, Ngân hàng Nhà nước cần được chủ động trong việc điều hành lãi suất và cung tiền. Chúng ta phải chấp nhận thực tế rằng, lãi suất thấp và tăng trưởng tín dụng cao không thể luôn được duy trì trong thời gian dài.
Đối với việc kiểm soát nợ xấu, về lý thuyết, Ngân hàng Nhà nước có thể dựa vào các tiêu chí đánh giá rủi ro. Tuy nhiên, để sớm phát hiện các rủi ro khi chúng chưa tích tụ, cần có hệ thống thông tin đầy đủ theo thời gian thực, cũng như ứng dụng công nghệ AI trong việc phân tích rủi ro của các khoản vay, của các ngân hàng thương mại cũng như của cả hệ thống.
Đối với các trường hợp vi phạm quy định, cần có các chế tài xử lý nghiêm. Khi bãi bỏ cơ chế hạn mức tín dụng, các ngân hàng thương mại được tự do hơn trong việc ra quyết định, nhưng cũng phải chấp nhận kỷ luật của thị trường khi đưa ra các quyết định sai. Đó mới là cơ chế thị trường đúng nghĩa.
PV: Vậy điều gì khiến Ngân hàng Nhà nước cho đến nay vẫn duy trì biện pháp hành chính này, thưa ông?
TS. Nguyễn Đức Độ: Nhu cầu vốn của nền kinh tế Việt Nam rất lớn, đặc biệt là lĩnh vực bất động sản.
Chính sách hạn mức tín dụng giúp Ngân hàng Nhà nước vừa kiểm soát được cung tiền và lạm phát, vừa duy trì được mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý. Thông qua phân bổ hạn mức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước cũng có thể tác động đến việc hướng các dòng tiền vào một số lĩnh vực ưu tiên với lãi suất thấp.
Hạn mức tín dụng là một công cụ đơn giản, hiệu quả trong việc kiểm soát rủi ro, đảm bảo ổn định vĩ mô. Tất nhiên, đây là biện pháp hành chính và hạn chế sự linh hoạt của các ngân hàng thương mại trong việc phân bổ nguồn lực.
PV: Xin cảm ơn ông!
Cần lộ trình thận trọng và hệ thống ngân hàng đủ sức chống chịu
Thời điểm thích hợp để Việt Nam có thể bỏ cơ chế hạn mức tín dụng vẫn là một dấu hỏi và điều này phụ thuộc vào nhiều điều kiện. Theo TS. Nguyễn Đức Độ - Phó Viện trưởng phụ trách Viện Kinh tế - Tài chính, hiện năng lực giữa các ngân hàng thương mại chưa đồng đều, đặc biệt là chất lượng nợ xấu.
"Nếu áp dụng ngay bỏ hạn mức tín dụng, có thể xảy ra tình huống một số ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao và phát triển nhanh, trong khi một số ngân hàng khác gặp khó trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng do bị cạnh tranh. Kết quả có thể là một số ngân hàng ngày càng yếu hơn và đến một lúc nào đó sẽ rơi vào tình trạng phá sản" - ông Độ lưu ý.
Vì thế, TS. Nguyễn Đức Độ cho rằng, nên đợi đến khi vấn đề nợ xấu được giải quyết cơ bản và hệ thống ngân hàng trở nên vững mạnh hơn.
Còn theo ông Nguyễn Quốc Hùng - Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, hiện vẫn có một số tổ chức tín dụng không muốn bỏ trần tín dụng, bởi ít nhất họ còn có một “chỗ dựa”, để Ngân hàng Nhà nước kiểm soát, đánh giá các chỉ tiêu, chỉ số, dựa trên đánh giá tỷ lệ nợ xấu để phân bổ chỉ tiêu tín dụng.
Việc Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 14/2025/TT-NHNN ngày 30/6/2025 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, với bộ đệm vốn và cơ chế giám sát rõ ràng là bước tiến lớn. Trong tương lai, nếu bỏ trần tín dụng, điều quan trọng không nằm ở việc Ngân hàng Nhà nước tự tính toán hay phân bổ như trước, mà là xây dựng một cơ chế minh bạch và kỷ luật nghiêm khắc. Chỉ cần ngân hàng vi phạm có thể bị đưa vào diện cảnh báo sớm.
"Ngân hàng Nhà nước cần lộ trình và có những bước đi hết sức thận trọng, vừa đảm bảo an toàn hệ thống vừa có thể cung ứng vốn cho nền kinh tế và hỗ trợ cho tăng trưởng" - ông Hùng nhận định./.
Ánh Tuyết