Diện tích rau đạt chuẩn VietGAP chưa đến 1%
Đối với lĩnh vực trồng trọt, theo ông Dương, khâu sản xuất là yếu tố quan trọng nhất trong bảo đảm an toàn thực phẩm. Việt Nam hiện có khoảng 10 triệu hộ nông dân với diện tích rau 1,15 triệu ha và cây ăn quả khoảng 1,3 triệu ha. Nguồn cung này không chỉ phục vụ tiêu dùng trong nước mà còn dành cho xuất khẩu, nên chất lượng sản phẩm luôn được cả người tiêu dùng nội địa và các thị trường nhập khẩu đặc biệt quan tâm.
“Muốn có thực phẩm an toàn thì gốc rễ phải bắt đầu từ sản xuất. Từ năm 2008, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành quy định và khuyến khích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, sau đó Chính phủ cũng có chính sách hỗ trợ. Hiện nay, có hai hệ thống chứng nhận chính là VietGAP và GlobalGAP, tuy nhiên đây không phải là quy định bắt buộc mà chỉ mang tính khuyến khích, theo hướng thúc đẩy sản xuất an toàn, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường sinh thái”, ông Dương nói.
Ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật.
Ông Dương cho rằng, từ năm 2012 đến nay, mặc dù đã có chính sách khuyến khích phát triển VietGAP và các tiêu chuẩn tương tự, nhưng sau hơn 10 năm, diện tích thực tế vẫn còn quá ít. Ngoài VietGAP, hiện nay cũng có một hình thức cam kết sản xuất an toàn do nông dân ký trực tiếp với bên tiêu thụ sản phẩm, song quy mô còn nhỏ lẻ, phân tán.
Cũng tại tọa đàm, ông Nguyễn Văn Mười, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam nhấn mạnh, để đảm bảo ATTP, yếu tố cơ bản nhất là phải có quy trình sản xuất chuẩn, trong đó VietGAP là yêu cầu tối thiểu. Khi tiêu chuẩn tối thiểu không được đáp ứng, chúng ta đang buông lỏng chất lượng và người tiêu dùng phải gánh chịu hậu quả. Đã đến lúc cần có các biện pháp mạnh mẽ hơn để kiểm soát hàng hóa lưu thông trên thị trường.
Điều người tiêu dùng quan tâm nhất là dư lượng hóa chất, điều mà cơ quan bảo vệ thực vật cần nâng cao trách nhiệm. Các sản phẩm bảo vệ thực vật phải được quản lý theo đơn, không thể mua tùy tiện. Tùy từng loại thuốc, thời gian cách ly có thể kéo dài từ vài tuần đến vài tháng. Nếu người sản xuất không có ý thức, người tiêu dùng sẽ là người chịu thiệt. Do đó, theo ông Mười, cần tăng cường tuyên truyền và quản lý.
Diện tích rau VietGAP chỉ đạt hơn 8.000 ha trên tổng số 1,15 triệu ha - tức chưa đến 1% (khoảng 0,5 - 0,6%).
Về thị trường, hiện chúng ta có ba kênh tiêu thụ chính: Bán lẻ hiện đại, chợ truyền thống và các cửa hàng rải rác. Trong khi chợ và hệ thống siêu thị còn có thể quản lý, các cửa hàng nhỏ lẻ thì rất khó kiểm soát. Vì vậy, cần phát triển các điểm bán tập trung để dễ quản lý, giảm rủi ro cho người tiêu dùng. Cần hạn chế hình thức bán hàng rải rác, tràn lan trên vỉa hè, lề đường. Hoạt động bán lẻ cần được chú trọng hơn trong sự quản lý chặt chẽ với quy định nghiêm ngặt.
Các cơ sở sản xuất cũng cần đáp ứng tiêu chuẩn trước khi đưa sản phẩm ra thị trường. Một nông dân mỗi năm có thể cung cấp hàng chục, thậm chí hàng trăm tấn rau, nhưng hiện vẫn chưa có biện pháp quản lý an toàn tương xứng. Đây chính là lỗ hổng quản lý cần được chú trọng siết chặt.
Cần có vùng trồng cho sản xuất, tiêu dùng trong nước an toàn
Bà Trần Thị Dung, Phó Chủ tịch kiêm Trưởng ban Kiểm tra Hội Bảo vệ người tiêu dùng nhấn mạnh, người tiêu dùng hiện nay không có quyền lựa chọn. Không cần phải chinh phục người tiêu dùng gì hết, họ vẫn phải lựa chọn. Thử hỏi ai là người lên tiếng khi người tiêu dùng ăn phải thực phẩm mất an toàn, bị nhiễm vi sinh, bị đau bụng... thì ai lên tiếng. Do đó, Hội Bảo vệ người tiêu dùng ra đời với mục đích bảo vệ người tiêu dùng.
“Liên quan câu chuyện người tiêu dùng được bảo vệ như thế nào, tôi thấy người tiêu dùng hiện đang hoang mang. Mình đang ở trên đất nước mình, tiêu dùng rau, củ, quả và những sản phẩm trên đất nước mình nhưng việc quản lý an toàn thực phẩm còn nhiều tồn tại, chưa có sự đột phá, “lực bất tòng tâm”. Nguyên nhân bắt đầu từ câu chuyện quản lý mỗi loại thực phẩm cần tới 3 bộ (Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường)”, bà Dung nói.
Bà Trần Thị Dung, Phó Chủ tịch kiêm Trưởng ban Kiểm tra Hội Bảo vệ người tiêu dùng.
Cũng theo bà Dung, một số cơ quan nhà nước hiện nay chưa quyết tâm làm an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng nội địa. Khi chúng ta làm xuất khẩu hoa quả sang Trung Quốc và các nước thì yêu cầu phải có vùng trồng. Tại sao chúng ta không làm vùng trồng cho sản xuất trong nước. Hiện nay, có chính quyền địa phương cấp xã, phường chúng ta nên có quy định, đào tạo họ để làm tốt việc quản lý các hộ sản xuất ở địa phương, ở vùng nào?
Về hệ thống luật pháp cần hoàn chỉnh, có tiêu chuẩn, quy chuẩn minh bạch và bao trùm; về hệ thống kiểm tra giám sát, quản lý nhà nước đang theo hướng pháp trị và đức trị. Yêu cầu tối thiểu hàng hóa ra thị trường bắt buộc phải ghi nhãn mác… Cơ quan quản lý cần tập trung vào xây dựng cơ chế, chính sách và quy định sau đó đi đào tạo cho hệ thống cấp xã, phường. Nếu ít tiền thì làm trước, làm “cuốn chiếu”.
PGS.TS Nguyễn Duy Thịnh, chuyên gia công nghệ sinh học và thực phẩm nêu ý kiến, tình trạng mất an toàn thực phẩm là vấn đề lớn, lãnh đạo Chính phủ, bộ, ban ngành cũng rất lo lắng. Việc nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm, nông sản trong nước nếu chỉ áp dụng bằng cơ chế kiểm soát thì không thể biến chuyển được, và nước ta không đủ nhân lực để kiểm soát hết. Vì thế, theo tôi hãy để người nông dân tự kiểm soát mình. Người nông dân không vô nhân đạo, không muốn làm hại chính đồng bào mình, mà người dân hoặc là không biết, hoặc là không hiểu.
Vì thế cần nâng cao ý thức người dân, việc của các cơ quan chức năng là làm thế nào để người dân biết, để người dân hiểu mà không sử dụng các chất cấm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông sản, thực phẩm, bởi nếu người biết mà cố tình làm sai thì đó là vi phạm pháp luật.
“Nhiều người dùng các sản phẩm trôi nổi trên thị trường dẫn đến nhiều mặt hàng không đảm bảo tiêu chuẩn của nước nhập khẩu, nhiều mặt hàng bị từ chối thông quan, trả lại hàng gây thiệt hại lớn. Để khắc phục tình trạng đó, theo tôi cơ quan chức năng cần có danh mục những hóa chất không được dùng trong nông nghiệp, như 1 quyển sổ tay cho người nông dân”, ông Thịnh nêu.
N.Yến