Muốn tăng trưởng kinh tế cao phải dựa vào tăng năng suất lao động

Muốn tăng trưởng kinh tế cao phải dựa vào tăng năng suất lao động
20 giờ trướcBài gốc
TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính).
Trong nhiều năm trở lại đây, Việt Nam đạt tốc độ tăng năng suất lao động thuộc hàng cao nhất trong khu vực ASEAN, nhưng vẫn ở mức thấp so với Singapore, Malaysia, Thái Lan. Theo ông, khi nào Việt Nam “đuổi kịp” các nước này về NSLĐ?
Năng suất lạo động là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất và là động lực chính của tăng trưởng kinh tế dài hạn. Nhà kinh tế học Paul R. Krugman khẳng định: “Trong ngắn hạn, năng suất không phải là tất cả, nhưng trong dài hạn, năng suất gần như là tất cả”. Điều này cho thấy tầm quan trọng của năng suất lao động đối với sự phát triển kinh tế bền vững trong dài hạn.
Theo số liệu của Cục Thống kê, năm 2024, năng suất lao động của nước ta tăng 5,88%, cao nhất trong nhiều năm trở lại đây và cao hơn mục tiêu đặt ra. Nhưng năng suất lao động của Việt Nam mới đạt khoảng 7.200 USD/lao động, tức là chỉ bằng khoảng 62% Thái Lan, 41% Malaysia và chưa bằng 1/10 so với Singapore. Điều đáng lưu ý là, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân đang giảm dần, từ mức 6,2% trong giai đoạn 2011-2015 xuống còn 5,8% trong giai đoạn 2016-2020 và khoảng 4,8% trong giai đoạn 2021-2024.
Với tốc độ tăng thấp và khoảng cách rất xa so với các nước kể trên, thì việc thu hẹp và tiến tới lấp bằng khoảng cách là rất khó, nếu không có sự đầu tư thích đáng và chiến lược cụ thể.
Thưa ông, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình Hành động quốc gia về tăng năng suất lao động đến năm 2030 với các mục tiêu, nhiệm vụ rất cụ thể?
Chương trình này được ban hành tại Quyết định số 1305/QĐ-TTg (ngày 8/11/2023), nhấn mạnh, đến năm 2030, năng suất lao động trở thành một động lực quan trọng cho tăng trưởng nhanh, bền vững, tận dụng hiệu quả các cơ hội từ cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là các trụ cột chính.
Chương trình cũng đã đặt ra những mục tiêu rất cụ thể: vào năm 2030, Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN về tốc độ tăng năng suất lao động; nâng cao tỷ trọng đóng góp của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng, trong đó đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) đạt khoảng 50% GDP. Muốn vậy, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân phải đạt trên 6,5%/năm; trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 6,5-7%/năm.
Mục tiêu đặt ra rất cao, rất khó, cần sự nỗ lực từ Trung ương đến địa phương và từng doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần lưu ý, một trong những nhiệm vụ quan trọng được đặt ra trong Quyết định số 1305/QĐ-TTg là thành lập Ủy ban Năng suất quốc gia để điều phối, hoạch định chính sách, song đến nay vẫn chưa thành lập.
Năm nay, chúng ta phấn đấu tốc độ tăng GDP đạt 8,3-8,5%, nhiều địa phương được “khoán tăng trưởng” 10-11%, lãnh đạo nhiều địa phương đặt mục tiêu tăng GRDP 13-14%, song chưa thấy địa phương nào đặt ra mục tiêu tăng năng suất lao động. Cần phải nhấn mạnh, năng suất lao động là yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của từng doanh nghiệp, có ý nghĩa quan trọng đối với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Tăng năng suất lao động là mục tiêu hàng đầu mà các quốc gia trên thế giới đang hướng đến, nhất là những nước đang phát triển để thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”.
Ông có thể phân tích kỹ hơn về yêu cầu cải thiện năng suất lao động để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế?
Cải thiện và thúc đẩy năng suất lao động là một trong những vấn đề cốt lõi đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, là điều kiện tiên quyết giúp Việt Nam thu hẹp trình độ phát triển với các nước trong khu vực, thích ứng với xu thế toàn cầu và chống chọi tốt với các cú sốc từ bên ngoài.
Ý nghĩa của tăng năng suất lao động đối với tăng trưởng kinh tế càng trở nên quan trọng hơn khi các yếu tố đầu vào như vốn, đất đai, tài nguyên trở nên khan hiếm, nguồn lao động đang bị ảnh hưởng do Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới.
Nếu mô hình tăng trưởng kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, lao động giá rẻ, thì không thể nhanh và bền vững được. Vì tài nguyên đang dần cạn kiệt; dân số già hóa nhanh; người công nhân dù có kinh nghiệm, tay nghề giỏi, làm việc 8-10 tiếng mỗi ngày và 6-7 ngày trong tuần cũng không thể năng suất bằng ứng dụng công nghệ tự động, robot, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn...
Như vậy, tăng trưởng kinh tế 2 con số ổn định và bền vững phải dựa vào khoa học, công nghệ, thưa ông?
Như tôi đã nói, năng suất lao động của Việt Nam còn khoảng cách khá xa so với những nước đứng đầu ASEAN, với tốc độ tăng như hiện nay, thì rất khó để đuổi kịp. Nhưng nếu tập trung phát triển khoa học, công nghệ, đi tắt, đón đầu, thì việc đuổi kịp không quá khó.
Nhận thức rất rõ vai trò của khoa học, công nghệ đối với sự phát triển kinh tế, xã hội trong cuộc cách mạng 4.0, cuối năm 2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57/NQ-TW, khẳng định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Nghị quyết số 57/NQ-TW chỉ rõ, đất nước ta đang đứng trước yêu cầu cần có chủ trương, quyết sách mạnh mẽ, mang tính chiến lược và cách mạng để tạo xung lực mới, đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Tuy nhiên, tại phiên họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (tổ chức vào cuối tháng 5/2025), Tổng Bí thư Tô Lâm thẳng thắn đánh giá, một số bộ, ngành và đa số địa phương còn lúng túng trong việc triển khai Nghị quyết số 57/NQ-TW. Việc triển khai còn mang tính hình thức, chưa xác định được những việc cụ thể cần làm phù hợp với ngành, địa phương.
Theo ông, muốn phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, qua đó tăng NSLĐ, cần tập trung vào giải pháp nào?
Chúng ta coi công nghiệp chế biến, chế tạo là đầu tàu của nền kinh tế. Đây là nhận thức đúng với nền kinh tế đang trong giai đoạn đầu phát triển. Vì vậy, Cục Thống kê luôn thực hiện báo cáo thống kê tổng hợp về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào công nghiệp chế biến, chế tạo hàng tháng, hàng quý, hàng năm và lũy kế từ trước đến nay.
Những con số này nếu không phân tách kỹ, thì rất vô cảm, vì trong công nghiệp chế biến, chế tạo có mấy chục phân ngành kinh tế cấp 3, cấp 4, cần phải phân tách kỹ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung vào những ngành nào, xu hướng thay đổi ra sao, từ đó đưa ra các cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu đãi, định hướng cho những ngành công nghệ cao, công nghệ nguồn, có hàm lượng giá trị gia tăng cao, kết nối với doanh nghiệp nội địa...
Muốn phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, qua đó tăng năng suất lao động, chúng ta vẫn cần dựa vào công nghệ tiên tiến, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tức là chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng dựa nhiều hơn vào khoa học, công nghệ, thiết bị máy móc, dây chuyền sản xuất hiện đại, tự động hóa, thay vì mô hình tăng trưởng dựa vào vốn đầu tư và nhân công giá rẻ. Nếu công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực thâm dụng lao động giá rẻ, thì không thể thay đổi được mô hình tăng trưởng kinh tế, không thể có đột phá trong tăng năng suất lao động.
Mạnh Bôn
Nguồn Đầu Tư : https://baodautu.vn/muon-tang-truong-kinh-te-cao-phai-dua-vao-tang-nang-suat-lao-dong-d345656.html