Hiện, tại Bảo tàng Lịch sự quân sự Việt Nam còn lưu giữ nhiều kỷ vật liên quan đến sự kiện Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp, trong đó có chiếc ba lô do đồng chí Nguyễn Thị Chương, Viện Bào chế, Cục Quân y sử dụng tham gia đoàn bộ đội Nam tiến, năm 1946. Ảnh: Bích Nguyên
Giữa lúc tiếng súng còn đang nổ ran nhiều nơi trong thành phố, vào sáng sớm ngày 23/9/1945, Xứ ủy, UBND và Ủy ban kháng chiến Nam Bộ triệu tập cuộc họp liên tịch tại nhà số 629, đường Cây Mai (nay là đường Nguyễn Trãi, thành phố Hồ Chí Minh). Hội nghị thông qua “Lời kêu gọi của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ” do đồng chí Trần Văn Giàu vừa soạn trong đêm. Sau khi nhắc lại lời thề “Độc lập hay là chết!” trong Lễ Độc lập tại Sài Gòn ngày 2/9/1945, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ xác định: “Từ giờ phút này, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là tiêu diệt giặc Pháp và tay sai của chúng” và kết thúc Lời kêu gọi bằng câu: “Cuộc kháng chiến bắt đầu!”[1].
Nhận được điện báo cáo của Nam Bộ, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra ngay Huấn lệnh: “Hỡi đồng bào Nam Bộ! Lòng cương quyết dũng cảm của nhân dân Nam Bộ chống lại quân đội xâm lăng của Pháp... làm cho đồng bào toàn quốc cảm phục... Đồng bào phải kiên quyết, phải giữ vững sự tin tưởng ở tương lai và lập tức thi hành triệt để những lời thề quả quyết trong Ngày Độc lập”[2]. Ngày 26/9/1945, qua làn sóng Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi “lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ” và khẳng định “Chính phủ và toàn quốc đồng bào sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang hy sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà”[3]. Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Huấn lệnh của Chính phủ cổ vũ mạnh mẽ lớp lớp quân dân Nam Bộ xốc tới thực hiện lời thề “Độc lập hay là chết!”.
Thực hiện chiến thuật “trong đánh, ngoài vây”, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ thành lập bốn mặt trận tiền tuyến ở ngoại thành: Mặt trận số 1 (hay Mặt trận phía Đông) trải dài từ cầu Thị Nghè đến cầu Mac Mahon (nay là cầu Công Lý), do Nguyễn Đình Thâu chỉ huy. Mặt trận số 2 (hay Mặt trận phía Bắc) ở vùng Bà Điểm - Hóc Môn, chốt chặn cầu Tham Lương trên quốc lộ số 1, do Nguyễn Văn Tư (Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Sài Gòn - Chợ Lớn) chỉ huy. Mặt trận số 3 (hay Mặt trận phía Tây) ở vùng Phú Lâm, Chợ Đệm, do Trần Văn Giàu (về sau do Nguyễn Lưu thay) chỉ huy. Mặt trận số 4 (hay Mặt trận phía Nam) trải dài từ Thủ Thiêm qua Nhà Bè đến Cần Giuộc, do Nguyễn Văn Trân (về sau do Dương Văn Dương thay) chỉ huy. Ngoài ra, còn một mặt trận nữa là mặt trận Cầu Bến Phân trên sông Vàm Thuật, Gò Vấp do liên quân Thủ Dầu Một và Gia Định phụ trách.
Máy điện thoại Bộ Tư lệnh Giải phóng quân Nam Bộ sử dụng liên lạc, nhận chỉ đạo của Trung ương thời kỳ đầu Nam Bộ kháng chiến, 1945-1946 trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Ảnh: Bích Nguyên
Ngay trong những ngày đầu kháng chiến, quân và dân Sài Gòn nói riêng và Nam Bộ nói chung đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân trong các hoạt động chiến đấu đã đặt nền móng cho sự ra đời và phát triển của lực lượng vũ trang ba thứ quân sau này. “Thắng lợi trong những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến là kết quả của tinh thần, sức mạnh ý chí, quyết tâm chiến đấu của quân và dân Nam Bộ, trước hết là quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn”[4].
Với tinh thần “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”[5], Trung ương Đảng, Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi quân và dân cả nước tập trung chi viện sức người, sức của cho nhân dân Nam Bộ. Hưởng ứng lời kêu gọi, ngay từ ngày 24/9/1945, nhiều tỉnh Nam Bộ gửi các đơn vị vũ trang đến Sài Gòn để tham gia chiến đấu. Đặc biệt, những đội dân quân người Mạ, người Stiêng từ Biên Hòa và Thủ Dầu Một, mặc trang phục dân tộc, sử dụng vũ khí truyền thống (cung, nỏ với tên tẩm thuốc độc) sát cánh cùng quân và dân Sài Gòn trên các mặt trận Thị Nghè, Cầu Bông... Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, tỉnh nào cũng thành lập Phòng Nam Bộ để tiếp nhận tiền bạc, thuốc men, lương thực... do nhân dân tự nguyện đóng góp ủng hộ quân và dân Nam Bộ. Đặc biệt, trong những đội quân ấy có cả một số Việt kiều mới về nước sau Cách mạng Tháng Tám, một số nhà sư trẻ “cởi áo cà sa, khoác chiến bào”. Có những gia đình có tới 3-4 anh em cùng xung phong Nam tiến.
Ngày 29/10/1945, trong Lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Quân Pháp nấp đuôi bọn quân đội Anh đang tàn sát đồng bào ta trong xứ. Ở Mỹ Tho, ở Tân An, ở Biên Hòa, Nha Trang, quân Pháp đã xâm phạm đến nền độc lập của chúng ta... Từ Nam chí Bắc, đồng bào ta luôn luôn sẵn sàng. Mấy triệu người như một, quyết tâm đánh tan quân cướp nước. Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc... Đồng bào trong Nam, trong một tháng nay, đã tỏ rõ tinh thần vững chắc, hùng dũng, đáng làm gương cho lịch sử thế giới”[6].
Sau hơn một tháng chiến đấu, quân và dân Nam Bộ với sự ủng hộ của đồng bào cả nước, đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá hủy một khối lượng lớn vật chất, bước đầu đánh bại âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp. Cuộc chiến đấu của quân và dân Nam Bộ có ý nghĩa quan trọng, tạo khoảng thời gian quý báu để xây dựng lực lượng chuẩn bị cho Toàn quốc kháng chiến; đồng thời, đây là cơ sở thực tiễn để Trung ương Đảng xây dựng đường lối cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, từng bước đánh bại cuộc xâm lược của thực dân Pháp, đi tới thắng lợi cuối cùng với Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử năm 1954. Tháng 2/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ đã tặng đồng bào Nam Bộ danh hiệu vẻ vang: “Thành đồng Tổ quốc”.
80 năm đã qua, cuộc chiến đấu của quân và dân Nam Bộ mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược mãi đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc. Có thể khẳng định, Nam Bộ kháng chiến là nguồn cổ vũ lớn lao tinh thần đấu tranh anh dũng của quân và dân cả nước, mở đầu cho những thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến sau này, đồng thời để lại nhiều bài học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Hải Hà
------------------------------------
[1] Mùa thu rồi, ngày hăm ba, tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, H, 1996, tr.54-55.
[2] Báo Cứu quốc, số 50, ngày 25/9/1945.
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.27.
[4] Nguyễn Hoàng Nhiên, Nam Bộ kháng chiến-75 năm nhìn lại, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 11/2020, tr.29.
[5] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.280.
[6] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.89.