Raptor là chiến đấu cơ thế hệ thứ năm đầu tiên, khi xuất hiện trên bầu trời vào đầu những năm 2000, nó thực sự không có đối thủ. Máy bay này là sản phẩm của Chương trình máy bay chiến thuật tiên tiến (ATF) của Không quân trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh để chống lại các mối đe dọa trên không mới đang nổi lên vào thời điểm đó. Nhờ mặt cắt radar nhỏ, F-22 ít bị phát hiện hơn khoảng 5-10 lần so với người kế nhiệm F-35 Lightning II.
Boeing F-22 Raptor được trang bị ba khoang vũ khí bên trong, có thể mang theo hai tên lửa không đối không AIM-9 Sidewinder và sáu tên lửa không đối không dẫn đường bằng radar AIM-120 AMRAAM. Máy bay chiến đấu này cũng có thể mang theo hai quả bom GBU-32 JDAMS hoặc tám quả bom đường kính nhỏ 250 pound khi bay hỗ trợ trên không tầm gần hoặc thực hiện nhiệm vụ tấn công chính xác.
Máy bay F-22. Ảnh: U.S. Air Force
Là nền tảng chiếm ưu thế trên không hàng đầu của Không quần Mỹ, Raptor sở hữu khả năng tàng hình, tốc độ và sức mạnh khiến các nhà hàng không và các chuyên gia quân sự phải kinh ngạc. Mặc dù F-35 đã xuất hiện, nhưng không có máy bay nào sánh được tốc độ, sức mạnh và sự thống trị trên không của F-22, đảm bảo vị thế huyền thoại của nó trong nhiều thập kỷ tới.
Trên thực tế, Không quân Mỹ đã khôn ngoan khi quyết định không bán nó cho các đồng minh để bảo vệ công nghệ bí mật của Raptor khỏi rơi vào tay kẻ thù.
F-22 được thiết kế như một máy bay chiến đấu chiếm ưu thế trên không nhưng kết hợp khả năng tấn công mặt đất, tác chiến điện tử và tình báo tín hiệu. Nó có thể đạt tốc độ Mach 2 và có tầm hoạt động 1.600 dặm. Raptor sở hữu khả năng cơ động trên không, tốc độ siêu hành trình, khả năng tàng hình tiên tiến và hệ thống cảm biến và radar tiên tiến.
Tàng hình
Thiết kế độc đáo của F-22 làm giảm đáng kể tiết diện phản xạ, khiến nó cực kỳ khó bị radar của đối phương phát hiện. Các nhà thiết kế máy bay đã rất tỉ mỉ trong việc hạ thấp tiết diện phản xạ radar (RCS) của F-22 mà không ảnh hưởng đến tốc độ và khả năng cơ động cần thiết để nó trở thành một máy bay chiến đấu nguy hiểm.
Các biện pháp để giảm RCS bao gồm định hình khung máy bay như căn chỉnh các cạnh và độ cong liên tục của bề mặt, khoang vũ khí bên trong, các cửa hút cố định và các cánh cong ngăn không cho tầm nhìn từ bên ngoài vào mặt quạt động cơ và tua-bin, sử dụng vật liệu hấp thụ radar (RAM), có tính đến các chi tiết như bản lề và mũ bảo hiểm của phi công có thể phản hồi radar.
Khả năng cơ động
Tỷ lệ lực đẩy trên trọng lượng vượt trội giúp F-22 thực hiện các pha rẽ hẹp và các động tác phức tạp, mang lại lợi thế trong các cuộc không chiến tầm gần. Động cơ phản lực cánh quạt tăng cường Pratt và Whitney F119 kép của F-22 Raptor cho phép tỷ lệ lực đẩy trên trọng lượng của F-22 đạt 1,25 khi đốt tăng lực hoàn toàn. Khí động học, độ ổn định và động cơ đẩy vectơ của Raptor mang lại cho nó khả năng cơ động và năng lượng vượt trội.
Siêu hành trình
F-22 có thể bay với tốc độ siêu thanh mà không cần đốt tăng lực, giúp nó đạt tốc độ và hiệu quả nhiên liệu trong các tình huống. Khả năng siêu hành trình hoặc duy trì chuyến bay siêu thanh mà không cần đốt tăng lực cho phép nó đánh chặn các mục tiêu mà máy bay phụ thuộc vào đốt tăng lực không có đủ nhiên liệu để tiếp cận. Nó có thể siêu hành trình ở tốc độ Mach 1,76, tốc độ tối đa Mach 2.2, và Raptor là máy bay vô đối về khả năng tàng hình và khả năng cơ động.
Hệ thống điện tử hàng không tiên tiến
Hệ thống máy tính trên F-22 tinh vi, sự kết hợp cảm biến, ăng-ten và phần mềm cho phép phi công nhận thức tình huống 360° đặc biệt nhanh chóng, không chỉ mang lại cho phi công lợi thế trước kẻ thù mà còn có thể tấn công nhiều mục tiêu. Các hệ thống được tích hợp và mô-đun hóa cao, giá cả phải chăng hơn và sẵn có hơn giúp phi công theo dõi, xác định và loại trừ các mối đe dọa.
Khoang vũ khí bên trong
Máy bay F-22 có ba khoang vũ khí bên trong - một khoang lớn ở giữa dưới thân máy bay và hai khoang nhỏ hơn ở hai bên thân máy bay, phía sau cửa hút gió động cơ. Vũ khí được mang bên trong thân giúp tăng cường khả năng tàng hình của máy bay. Khi phóng tên lửa, cửa khoang phải mở trong chưa đầy một giây, trong thời gian đó, các cánh tay khí nén hoặc thủy lực đẩy tên lửa ra khỏi máy bay; điều này nhằm giảm khả năng bị phát hiện và triển khai tên lửa trong khi bay tốc độ cao.
Không quân Mỹ có kế hoạch nâng cấp và cải tiến tên lửa AIM-9X và AIM-120D cùng radar AESA để duy trì lợi thế so với các đối thủ mới hơn và đảm bảo F-22 Raptor sẽ là máy bay vượt trội trong nhiều năm tới. Được gọi chung là Hệ thống Phòng thủ hồng ngoại (IRDS), các cảm biến do Lockheed-Martin thiết kế sẽ nâng tầm Raptors ngang bằng với F/A-18 Super Hornet và F-35 Lightning II hiện đại. Các cảm biến mới sẽ được tích hợp trên hầu hết 178 chiếc F-22 còn lại của Không quân Mỹ.
CTV Lê Ngọc/VOV.VN (tổng hợp)