Thiếu các hoạt động giáo dục giới tính
Theo một nghiên cứu do Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Trường Đại học Y Hà Nội thực hiện, chỉ tính riêng năm 2022, trong tổng số 4.717 hồ sơ đình chỉ thai nghén tự nguyện tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, có 51 trường hợp là trẻ vị thành niên. Độ tuổi trung bình của các em là 15,7 tuổi, trong đó em nhỏ nhất chỉ 12 tuổi. Đa số các em vẫn còn đi học, chiếm tới hơn 96%, và có những trường hợp đã từng phá thai trước đó.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tuổi quan hệ tình dục tại Việt Nam đang có xu hướng giảm dần, trong khi tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn ở nhóm tuổi vị thành niên tăng lên đáng kể. Nếu như năm 2014, tỷ lệ này tại Hà Nội chỉ là 0,4% thì đến năm 2022, con số đã tăng lên 1,08%.
Bác sĩ Bệnh viện Phụ sản Hà Nội tư vấn kiến thức về sức khỏe sinh sản cho các em học sinh. Ảnh: Thảo Hương
Tại Đồng Nai, theo thống kê của Sở Y tế, trong 10 tháng đầu năm 2024 đã ghi nhận 2.314 ca nạo phá thai; trong số đó, 115 ca là trẻ vị thành niên. Tuy nhiên, đây chỉ là số liệu từ các cơ sở y tế công lập, trong khi các ca phá thai tại cơ sở tư nhân vẫn chưa được thống kê đầy đủ. Điểm chung của hầu hết các trường hợp này là các em thiếu hiểu biết về tình dục an toàn, không sử dụng biện pháp tránh thai và không nhận được sự quan tâm, định hướng từ gia đình.
Theo các chuyên gia y tế, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Một trong số đó là sự thiếu hụt nghiêm trọng về giáo dục giới tính trong nhà trường. Các nội dung liên quan đến sức khỏe sinh sản và tình dục an toàn thường chỉ được đưa vào các hoạt động ngoại khóa, hoặc nếu có cũng chỉ dừng lại ở mức lý thuyết cơ bản. Điều này khiến học sinh không hiểu rõ những thay đổi cơ thể ở tuổi dậy thì, cũng như cách phòng tránh các nguy cơ khi quan hệ tình dục không an toàn.
Thêm vào đó, nhiều bậc phụ huynh vẫn giữ quan điểm rằng, giáo dục giới tính cho trẻ là không cần thiết, thậm chí cho rằng việc này sẽ "vẽ đường cho hươu chạy." Điều này khiến trẻ em thiếu đi sự hướng dẫn kịp thời từ gia đình. Trong khi đó, ở độ tuổi vị thành niên, tâm lý tò mò và mong muốn khám phá bản thân rất cao. Nếu không được trang bị kiến thức, các em dễ bị cuốn vào các mối quan hệ không an toàn, dẫn đến mang thai ngoài ý muốn hoặc mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Hậu quả của nạo phá thai ở tuổi vị thành niên không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thể chất mà còn gây tổn thương tâm lý nặng nề cho các em. Những ca phá thai không an toàn có thể gây nhiễm trùng, biến chứng lâu dài hoặc ảnh hưởng đến khả năng sinh sản trong tương lai. Về mặt tâm lý, các em thường phải đối mặt với cảm giác tội lỗi, tự ti và áp lực từ gia đình, nhà trường và xã hội. Không chỉ vậy, thực trạng này còn ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng dân số và sự phát triển bền vững của đất nước.
Cần những giải pháp đồng bộ và bền vững
Trước thực trạng đáng báo động này, nhiều biện pháp đã được triển khai nhằm giảm thiểu tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên và nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản. Một trong những giải pháp hiệu quả là tăng cường giáo dục giới tính trong nhà trường.
Tại Đồng Nai, Chi cục Dân số tỉnh đã phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức các buổi tập huấn chuyên sâu về sức khỏe sinh sản cho học sinh. Năm 2024, đã có 156 lớp học được tổ chức, thu hút gần 22.000 học sinh tham gia. Các nội dung tập huấn không chỉ cung cấp kiến thức về tâm sinh lý tuổi dậy thì mà còn hướng dẫn cách phòng tránh thai, sử dụng bao cao su đúng cách và nâng cao nhận thức về các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Hà Nội giới thiệu cuốn sách hữu ích về chăm sóc sức khỏe sinh sản. Ảnh: Thảo Hương
Tại Hà Nội, Trung tâm Y tế quận Đống Đa cũng tổ chức nhiều chiến dịch truyền thông tại các trường trung học cơ sở, tạo môi trường cởi mở để học sinh thảo luận và đặt câu hỏi liên quan đến sức khỏe sinh sản. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức xã hội cũng tham gia tích cực trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng. Hội Liên hiệp Phụ nữ Hà Nội đã tổ chức nhiều sự kiện truyền thông tại các vùng nông thôn và vùng dân tộc thiểu số.
Các buổi tuyên truyền được tổ chức dưới nhiều hình thức sáng tạo như sân khấu hóa, thảo luận nhóm và giao lưu với bác sĩ chuyên khoa. Kết quả là tỷ lệ phụ nữ được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe trước, trong và sau sinh đã tăng lên đáng kể, trong khi, tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh giảm mạnh.
Một yếu tố quan trọng khác cần được chú trọng là vai trò của gia đình trong giáo dục trẻ em về sức khỏe sinh sản. Gia đình không chỉ là nơi trẻ nhận được sự quan tâm và yêu thương mà còn là môi trường đầu tiên giúp trẻ hình thành nhận thức về cơ thể và giới tính. Các bậc cha mẹ cần hiểu rằng, việc nói chuyện với con về giới tính không phải là điều cấm kỵ mà là cách để bảo vệ con khỏi những nguy cơ tiềm ẩn. Việc lắng nghe, chia sẻ và hướng dẫn kịp thời sẽ giúp trẻ hiểu rõ hơn về những thay đổi của cơ thể, biết cách bảo vệ bản thân và xây dựng mối quan hệ lành mạnh.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Hà Nội giới thiệu cuốn sách hữu ích về chăm sóc sức khỏe sinh sản. Ảnh: Thảo Hương
Theo các chuyên gia, cần có những chiến lược đồng bộ và bền vững để giải quyết vấn đề này. Trước tiên, giáo dục giới tính cần được tích hợp vào chương trình chính khóa với nội dung đa dạng, thực tiễn và phù hợp với từng lứa tuổi. Các chiến dịch truyền thông cần tiếp tục được mở rộng và đổi mới, sử dụng mạng xã hội và các kênh trực tuyến để tiếp cận nhóm trẻ vị thành niên một cách hiệu quả hơn. Đồng thời, các cơ sở y tế nên phát triển thêm các dịch vụ thân thiện, cung cấp tư vấn miễn phí và bảo mật để trẻ có thể thoải mái chia sẻ và nhận sự hỗ trợ cần thiết.
Nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản và tình dục an toàn cho trẻ vị thành niên không chỉ là trách nhiệm của nhà trường mà còn cần sự chung tay của gia đình, xã hội và các cơ quan chức năng. Đây chính là nền tảng quan trọng để xây dựng một thế hệ khỏe mạnh, tự tin và góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Dương Cầm