Việc nâng mức giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân (TNCN) – tăng từ 11 lên 15,5 triệu đồng/tháng cho người nộp thuế và từ 4,4 lên 6,2 triệu đồng/tháng cho mỗi người phụ thuộc, dự kiến áp dụng từ năm 2026 – là quyết định được dư luận quan tâm.
Dưới góc độ pháp luật, chính sách này không chỉ là điều chỉnh con số, mà còn là câu chuyện về thẩm quyền lập pháp, nguyên tắc công bằng, tính dự báo và khả năng thi hành trong Nhà nước pháp quyền.
Thẩm quyền và hiệu lực pháp lý
Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các yếu tố cấu thành căn cứ tính thuế như mức giảm trừ gia cảnh, biểu thuế, ngưỡng chịu thuế… phải được quy định trong luật, không nên rải rác ở nghị quyết hay thông tư.
Việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua điều chỉnh mức giảm trừ là đúng thẩm quyền trong giai đoạn chuyển tiếp. Tuy nhiên, về lâu dài, mức này cần được quy định trực tiếp trong Luật Thuế Thu nhập cá nhân để đảm bảo thống nhất và minh bạch.
PGS-TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế.
Người dân cần một văn bản có giá trị pháp lý cao làm căn cứ, thay vì phải đối chiếu nhiều tầng nấc văn bản dễ gây nhầm lẫn khi quyết toán thuế.
Thực tế, bản chất của giảm trừ gia cảnh là bảo đảm công bằng theo khả năng nộp thuế (ability to pay). Pháp luật chỉ đánh thuế sau khi đã trừ phần thu nhập cần thiết để bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình. Vì vậy, việc điều chỉnh không phải là “ưu đãi” mà là thực thi quyền công bằng về thuế được Hiến pháp bảo hộ.
Tuy nhiên, để nguyên tắc này có hiệu lực, cần điều chỉnh đồng bộ biểu thuế, ngưỡng chịu thuế và mức giảm trừ, tránh hiện tượng “bò cạp thuế” – khi thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát nhưng người dân vẫn bị đẩy lên bậc thuế cao hơn dù sức mua thực không đổi.
Thêm vào đó, thuế là nghĩa vụ bắt buộc nên phải bảo đảm tính dự báo và không hồi tố. Việc quy định áp dụng từ kỳ tính thuế năm 2026 là hợp lý để cơ quan thuế, doanh nghiệp và cá nhân có thời gian chuẩn bị.
Tuy nhiên, để tránh “khoảng trống công bằng”, Bộ Tài chính cần có quy tắc chuyển tiếp rõ ràng, hướng dẫn cụ thể với các khoản tạm khấu trừ cuối năm 2025, tránh tình trạng phải hoàn thuế phức tạp hoặc gây thiệt cho người nộp thuế. Văn bản hướng dẫn cần ban hành sớm để các hệ thống kế toán, phần mềm quản lý tiền lương có thời gian cập nhật.
Kỹ thuật lập pháp chống “bò cạp thuế”
Một đề xuất quan trọng là chỉ số hóa tự động (indexation) trong luật: gắn mức giảm trừ gia cảnh và các bậc thuế với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hoặc tiền lương trung vị. Mỗi 2–3 năm, các mức này được tự động điều chỉnh theo công thức rõ ràng, không cần “xin – cho”.
Cách làm này phổ biến ở nhiều quốc gia, giúp tránh lạm phát vô hình trong thuế và tăng tính dự đoán của pháp luật.
Một điểm nghẽn lâu nay là xác định người phụ thuộc. Nhiều trường hợp không cùng hộ khẩu, làm việc xa quê khiến việc chứng minh gặp khó.
Pháp luật cần đồng bộ khái niệm “người phụ thuộc” giữa Luật Thuế Thu nhập cá nhân, Bộ luật Dân sự và Luật Hôn nhân và Gia đình; thừa nhận chứng cứ điện tử như giấy khai sinh, xác nhận học sinh, người khuyết tật hoặc dữ liệu dân cư.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua điều chỉnh mức giảm trừ. Ảnh: VGP
Đồng thời, cần ứng dụng công nghệ để liên thông dữ liệu dân cư – bảo hiểm – giáo dục, giúp người nộp thuế được khấu trừ ngay trong kỳ tính thuế thay vì chờ hoàn thuế cuối năm.
Ngoài ra, khi tích hợp dữ liệu giữa các cơ quan, yêu cầu bảo mật thông tin cá nhân phải được quy định rõ trong Luật Thuế và Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân. Người nộp thuế cần được thông báo và có quyền truy cập, chỉnh sửa thông tin nếu sai sót.
Cũng cần quy định rõ trách nhiệm pháp lý nếu rò rỉ hoặc lạm dụng dữ liệu thu nhập, tránh biến thuế thành “cửa ngõ xâm phạm quyền riêng tư”.
Đáng chú ý, chi phí sinh hoạt giữa TP.HCM, Hà Nội và các địa phương khác rất khác biệt. Chính sách thống nhất toàn quốc tuy dễ quản lý nhưng thực tế chưa hợp lý và chưa công bằng.
Về lâu dài, có thể nghiên cứu “hệ số vùng” cho mức giảm trừ gia cảnh, tương tự lương tối thiểu vùng, hoặc cho phép khấu trừ có chứng từ cho chi phí thiết yếu như nuôi con nhỏ, chăm sóc người già. Đây là hướng đi hợp lý, minh bạch và bảo đảm công bằng theo nhu cầu.
Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mọi chính sách thuế đều phải có báo cáo đánh giá tác động (RIA). Hồ sơ trình Quốc hội cần công khai các kịch bản hụt thu, lợi ích theo nhóm thu nhập và vùng địa lý, cùng cơ chế giám sát sau 12–24 tháng áp dụng.
Đây là yêu cầu bắt buộc để chính sách vừa khả thi, vừa có trách nhiệm giải trình.
Kiến nghị hoàn thiện pháp lý
Tới đây Chính phủ cần đề xuất Quốc hội luật hóa mức giảm trừ và cơ chế chỉ số hóa trực tiếp trong Luật Thuế Thu nhập cá nhân sửa đổi; cập nhật đồng bộ biểu thuế và ngưỡng chịu thuế; ban hành quy tắc chuyển tiếp rõ ràng giữa năm 2025–2026; Chuẩn hóa khái niệm người phụ thuộc, thừa nhận chứng cứ điện tử, chuyển sang cơ chế hậu kiểm rủi ro; số hóa quản lý thuế, bảo vệ dữ liệu cá nhân, đảm bảo minh bạch và an toàn thông tin.
Có thể thí điểm khấu trừ chi phí thiết yếu có hóa đơn tại TP.HCM và các đô thị lớn để đánh giá hiệu quả.
Nhìn từ góc độ pháp lý, việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh là bước đi đúng và cần thiết, thể hiện sự thấu hiểu đời sống người lao động và tinh thần công bằng trong chính sách thuế.
Tuy nhiên, để chính sách này tiệm cận hơn với thực tiễn, pháp luật cần tiến thêm một bước: luật hóa cơ chế chỉ số hóa tự động, đồng bộ biểu thuế, số hóa quy trình và bảo vệ quyền dữ liệu công dân. Một chính sách thuế hiện đại không chỉ là “tăng hay giảm” con số, mà phải bảo đảm quyền, minh bạch và công bằng – nền tảng của một Nhà nước pháp quyền vì dân.
Sáng 17-10, 100% thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội có mặt đã thông qua nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân.
Theo đó, mức giảm trừ đối với người nộp thuế là 15,5 triệu đồng/tháng (186 triệu đồng/năm), với mỗi người phụ thuộc là 6,2 triệu đồng/tháng. Nghị quyết có hiệu lực từ ngày ký và áp dụng cho kỳ tính thuế năm 2026 (tháng 3-2027).
Như vậy, so với mức hiện hành là 11 triệu đồng/tháng cho người nộp thuế và 4,4 triệu đồng/tháng cho mỗi người phụ thuộc, mức mới tăng hơn 40%.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi cho biết việc điều chỉnh căn cứ theo tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người và GDP bình quân đầu người. Tính đến hết năm 2025, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng khoảng 21,24% so với năm 2020, trong khi thu nhập bình quân đầu người và GDP bình quân đầu người tăng khoảng 40-42%.
Theo phương án này, người có thu nhập 17 triệu đồng/tháng (không có người phụ thuộc) sau khi trừ các khoản bảo hiểm bắt buộc 10,5% và mức giảm trừ 15,5 triệu đồng sẽ chưa phải nộp thuế. Người có một người phụ thuộc cần thu nhập trên 24,22 triệu đồng/tháng, và có hai người phụ thuộc cần thu nhập trên 31,15 triệu đồng/tháng mới bắt đầu chịu thuế ở mức 5%.
Việc điều chỉnh dự kiến làm giảm thu ngân sách khoảng 21.000 tỉ đồng/năm.
VIẾT LONG
PGS.TS NGÔ TRÍ LONG