Nâng mức hỗ trợ khoán bảo vệ rừng

Nâng mức hỗ trợ khoán bảo vệ rừng
3 giờ trướcBài gốc
Tạo mạng lưới cộng đồng tham gia bảo vệ rừng đông đảo
“Công tác khoán bảo vệ rừng là nội dung được triển khai rộng nhất, tập trung vào diện tích rừng tự nhiên, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng do các ban quản lý rừng, công ty lâm nghiệp hoặc UBND xã làm chủ rừng”. Đây là nội dung nêu trong dự thảo Báo cáo tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về giao đất, giao rừng, bảo vệ, phát triển rừng gắn với tạo sinh kế ổn định, nâng cao đời sống cộng đồng dân cư, hộ gia đình ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2019 - 2023.
Thường trực Hội đồng Dân tộc làm việc với các bộ, ngành lấy ý kiến về dự thảo Báo cáo. Ảnh: Hồ Long
Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quàng Văn Hương cho biết, hình thức khoán bảo vệ rừng thực hiện chủ yếu là ký hợp đồng khoán bảo vệ rừng cho cộng đồng dân cư, nhóm hộ hoặc hộ gia đình, đi kèm cơ chế hỗ trợ kinh phí theo các chính sách như: Nghị định 75/2015/NĐ-CP ngày 9/9/2015 (sau đó là Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021), Quyết định số 38/2016/QĐ-TTg ngày 14/9/2016, Quyết định số 809/QĐ-TTg ngày 12/7/2022 và từ nguồn chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Cũng theo dự thảo báo cáo, các tỉnh đã tổ chức giao khoán với quy mô rất lớn, tạo ra mạng lưới cộng đồng tham gia bảo vệ rừng đông đảo, góp phần quan trọng vào duy trì độ che phủ rừng, giảm tình trạng xâm hại rừng và tạo nguồn thu thường xuyên cho người dân sống gần rừng; một số địa phương triển khai với diện tích lớn.
Đối với công tác chi trả dịch vụ môi trường rừng, đây là cơ chế tài chính bền vững, góp phần tạo nguồn thu ổn định cho cộng đồng và hộ gia đình trực tiếp tham gia bảo vệ rừng, dự thảo báo cáo cho thấy, ít nhất 10 tỉnh đã triển khai thực hiện hiệu quả chính sách này, với nguồn chi trả đến từ các cơ sở sử dụng dịch vụ môi trường rừng, như thủy điện, nước sinh hoạt, du lịch sinh thái. Một số địa phương có quy mô chi trả lớn và liên tục trong nhiều năm.
Đồng thời, có 9 tỉnh đã triển khai phát triển sinh kế dưới tán rừng với quy mô thí điểm hoặc mô hình nhỏ lẻ, nhằm nâng cao giá trị sử dụng rừng và cải thiện thu nhập cho cộng đồng. Các hoạt động chủ yếu gồm trồng dược liệu (ba kích, thiên niên kiện, sa nhân, thảo quả, đẳng sâm, sâm Ngọc Linh…), trồng Mây nước, cây lâm sản ngoài gỗ, nuôi gia súc dưới tán rừng, khai thác măng, nấm, song mây, lá dong và một số mô hình nông - lâm kết hợp.
Với Chương trình hỗ trợ trồng rừng sản xuất, cung cấp giống cây lâm nghiệp chất lượng cao, khoanh nuôi tái sinh có trồng bổ sung, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc cho biết, có 6 tỉnh đã triển khai Chương trình, với các mô hình trồng rừng gỗ lớn, rừng sản xuất, rừng phòng hộ và trồng cây lâm sản ngoài gỗ. Các chính sách hỗ trợ giúp tăng diện tích rừng trồng mới, cải thiện thu nhập cho hộ dân và góp phần nâng cao độ che phủ rừng.
Thừa nhận cộng đồng là chủ thể pháp lý để quản lý rừng
Tuy nhiên, một số tỉnh cũng phản ánh khó khăn chung trong quá trình thực hiện chính sách giao, khoán và phát triển sinh kế rừng.
Dự thảo báo cáo chỉ rõ, các vướng mắc chủ yếu là sự chồng chéo hoặc thiếu thống nhất dữ liệu đất đai lâm nghiệp; thiếu cơ sở định lượng đánh giá tác động sinh kế dưới tán rừng khiến địa phương khó phê duyệt dự án; thiếu vốn hoặc chậm giải ngân hỗ trợ khoán bảo vệ rừng; chưa thu hút được doanh nghiệp đầu tư vào chuỗi giá trị lâm sản. Đáng lưu ý, rừng giao chủ yếu là rừng nghèo hoặc manh mún, khó phát triển sinh kế.
Thực tế từ tỉnh Lâm Đồng (tỉnh Đắk Nông cũ, trước khi sáp nhập) cho thấy, chưa phát triển được mô hình dược liệu dưới tán rừng do thiếu vùng khảo nghiệm và tiêu chí đánh giá. Tại Đắk Lắk không triển khai được khoán bảo vệ rừng theo Chương trình mục tiêu quốc gia dân tộc thiểu số và miền núi do vướng đối tượng rừng đủ điều kiện hỗ trợ…
Kết quả khảo sát từ Hội đồng Dân tộc cho thấy, đa số các cộng đồng, hộ gia đình nhận giao khoán, ngoài tiền hỗ trợ bảo vệ rừng của Nhà nước, không kết hợp thêm các sinh kế khác; thu nhập không đồng đều, một số nơi không nêu được số tiền thu nhập của các hộ tham gia. Một số địa phương triển khai dự án đầu tư theo hình thức hỗ trợ cho cộng đồng, hộ gia đình tham gia cho kết quả bước đầu. Một số địa phương muốn kết hợp khai thác phát triển du lịch nhưng vướng mắc do quy định về sử dụng đất lâm nghiệp và chính sách bảo vệ rừng hoặc mới sơ khai, tự phát, chưa có hiệu quả.
“Điểm sáng hiếm hoi là tại Tuyên Quang đã xây dựng được mô hình thực hiện hiệu quả hoạt động bảo vệ rừng kết hợp làm dịch vụ du lịch sinh thái nghỉ dưỡng tạo việc làm thường xuyên cho lao động (hầu hết là người dân tộc thiểu số), mức thu nhập bình quân 5 triệu đồng/người/tháng, ông Quàng Văn Hương nói.
Từ thực tế trên, dự thảo báo cáo kiến nghị, về chính sách giao đất, giao rừng, quyền của cộng đồng, cần sửa quy định về đối tượng được giao rừng (không ràng buộc cư trú xã nơi có rừng); bổ sung quyền sở hữu rừng trồng phòng hộ, đặc dụng; thừa nhận cộng đồng là chủ thể pháp lý để quản lý rừng. Nâng mức hỗ trợ khoán bảo vệ rừng (từ 400 - 600 nghìn lên 1 triệu đồng/ha/năm); tăng hỗ trợ trồng rừng gỗ lớn, khoanh nuôi tái sinh, dược liệu dưới tán rừng.
Dự thảo báo của Hội đồng Dân tộc cũng nêu rõ, các đề nghị cụ thể với các bộ, ngành. Đó là, Bộ Tài chính cần bổ sung hình thức ứng tiền hỗ trợ bảo vệ rừng cho lực lượng bảo vệ rừng và người dân tham gia; hướng dẫn đơn giản hóa các thủ tục rà soát, đánh giá chất lượng rừng, nghiệm thu, thanh toán kinh phí; xem xét, đề xuất nâng mức hỗ trợ khoán bảo vệ rừng.
Bộ Dân tộc và Tôn giáo cần phối hợp, lồng ghép Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) phát triển KT-XH với Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững; hướng dẫn thực hiện chính sách tạo sinh kế gắn với bảo vệ rừng trong Chương trình MTQG phát triển KT-XH vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tăng cường quản lý các diện tích đất, rừng truyền thống của cộng đồng dân cư vùng dân tộc thiểu số và miền núi gắn với các hoạt động tín ngưỡng, văn hóa; quan tâm hỗ trợ phục dựng các lễ hội gắn với bảo vệ rừng, xây dựng đời sống văn hóa mới.
Anh Thảo
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân : https://daibieunhandan.vn/nang-muc-ho-tro-khoan-bao-ve-rung-10402026.html