Việt Nam đã đạt mức phát triển trung bình thấp vào năm 2009 theo phân loại của Ngân hàng Thế giới và đang tiến gần đến trung bình cao. Để thoát bẫy thu nhập trung bình và phát triển lên quốc gia tiên tiến thu nhập cao, liên tục tăng năng suất lao động tốc độ cao là một trong những điều cốt yếu.
Tham chiếu lý luận và kinh nghiệm từ các nước Đông Á (Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản), GS. Trần Văn Thọ, Giáo sư danh dự tại Đại học Waseda (Nhật Bản), nhấn mạnh, nền kinh tế phải được chuyển dịch cơ cấu từ hàm lượng lao động giản đơn sang hàm lượng lao động kỹ năng cao, hàm lượng tư bản và công nghệ cao hơn.
“Thất bại trong chuyển dịch cơ cấu này sẽ rơi vào bẫy thu nhập trung bình”, ông Thọ đánh giá tại hội thảo về động lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam ngày 16/9.
Tuy nhiên, theo ông Thọ, thực tế cho thấy năng suất lao động của Việt Nam tăng không mạnh thời gian qua, trước hết đến từ các vấn đề công nghiệp hóa.
Công nghiệp là khu vực năng động, dễ áp dụng công nghệ và dễ tăng năng suất. Các nước thành công trong phát triển ở Đông Á đều đẩy mạnh công nghiệp hóa trong giai đoạn dân số vàng để tận dụng lực lượng lao động, và tăng trưởng tốc độ cao.
Đơn cử, trong giai đoạn dân số vàng, tỷ lệ của công nghiệp trong GDP của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đều cao trong khi con số này của Việt Nam rất thấp dù sắp hết dân số vàng.
Không chỉ vậy, Việt Nam hội nhập sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu nhưng chất lượng hội nhập thấp, ông Thọ nhận định. Bằng chứng là Việt Nam càng xuất khẩu hàng công nghiệp thì càng nhập khẩu nhiều sản phẩm trung gian, kết quả là tỷ lệ giá trị gia tăng trong nước ngày càng giảm.
Điều này khiến vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu có vẻ như là một công xưởng gia công, lắp ráp.
Công nghiệp hóa ở mức thấp và mang tính chất gia công, lắp ráp dẫn tới tình trạng năng suất thấp của khu vực này, vị giáo sư giải thích thêm. Điểm này phản ảnh trong chênh lệch quá nhỏ giữa tỷ trọng trong lao động và tỷ trọng trong GDP của khu vực công nghiệp.
Đơn cử, vào năm 2019, tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ, theo Báo cáo Điều tra lao động việc làm là 30% và tỷ trọng công nghiệp trong GDP là 34%, tương đương mức chênh lệch 4 điểm phần trăm. Trong khi đó, tại các nước Đông Á tính chung, hai con số này lần lượt là 24% và 39% (chênh lệch 15 điểm phần trăm).
Để thoát bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần liên tục tăng năng suất lao động. Ảnh: Hoàng Anh
Nhóm vấn đề thứ hai làm cho năng suất lao động thấp, theo ông Thọ, là sự yếu kém của khu vực tư nhân.
Tại Việt Nam, vị giáo sư đánh giá, khu vực ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và lao động nhưng năng suất rất thấp. Trong khi đó, khu vực kinh tế tư nhân bao gồm rất nhiều doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (SMEs), và một khu vực phi chính thức với 5 triệu đơn vị sản xuất kinh doanh cá thể thu hút hơn 9 triệu lao động.
Các doanh nghiệp siêu nhỏ và SMEs gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn đầu tư và trực diện nhiều thủ tục hành chánh phức tạp. Đa số phụ thuộc vốn tự có hoặc các nguồn vốn phi chính thức.
Do vậy, các doanh nghiệp này ít có dự án liên doanh với FDI và ít doanh nghiệp tham gia vào công nghiệp hỗ trợ. Điều tra của Ngân hàng Thế giới gần đây cho thấy tỷ lệ số doanh nghiệp tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu ngày càng thấp.
Cửa nào cho tăng năng suất lao động?
Trước những vấn đề còn tồn tại của năng suất tại Việt Nam, ông Thọ đề xuất các chính sách để tăng năng suất và tăng trưởng cao cần có chính sách làm mạnh khu vực doanh nghiệp tư nhân (các chính sách riêng cho doanh nghiệp lớn, SME và khu vực phi chính thức); chính sách mở rộng và thâm sâu công nghiệp hóa và các chính sách khác (như nguồn nhân lực chất lượng cao, hạ tầng phần cứng, hạ tầng phần mềm).
Đối với doanh nghiệp lớn, ông Thọ kiến nghị, cần tạo cơ chế để các doanh nghiệp này cùng chia sẻ với nhà nước về tầm nhìn dài hạn của kinh tế trong tương lai.
Nhóm doanh nghiệp này cũng sẽ cùng với nhà nước thực hiện các dự án nghiên cứu công nghệ cơ bản, và qua chính sách thuế cần khuyến khích đầu tư nhiều hơn trong nghiên cứu và triển khai (R&D).
“Hiện nay chi tiêu R&D/GDP còn quá thấp và đóng góp của doanh ghiệp tư nhân còn nhỏ”, ông Thọ lưu ý. Kinh nghiệm từ các nước cho thấy, cùng giai đoạn thu nhập trung bình cao, tỷ lệ R&D/GDP của Hàn Quốc là trên 1%, của Trung Quốc là 2% với vai trò lớn của các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp lớn mạnh là điều kiện để đầu tư hiệu quả và đẩy mạnh đổi mới sáng tạo. Chính sách cần giúp doanh nghiệp lớn ngày càng lớn mạnh hơn, giúp SME phát triển thành doanh nghiệp lớn, và doanh nghiệp siêu nhỏ, đơn vị cá thể chuyển thành SME.
Trong giai đoạn phát triển từ trung bình hướng đến thu nhập cao, theo ông Thọ, Việt Nam phải có nhiều doanh nghiệp lớn mới thành công. Nguyên nhân là bởi các dự án đầu tư ngày càng lớn, nhu cầu nghiên cứu, áp dụng công nghệ mới ngày càng nhiều với độ rủi ro cao mà chỉ doanh nghiệp lớn mới có thể chống chịu.
GS. Trần Văn Thọ, Giáo sư danh dự tại Đại học Waseda (Nhật Bản). Ảnh: NVCC
Liên quan đến chính sách dành cho công nghiệp hóa, Việt Nam có thể mở rộng quy mô sản xuất và xuất khẩu những ngành đã có hoặc phát triển những ngành mới. Trong những ngành đã có như ô tô, máy tính, bán dẫn, thực phẩm, ông Thọc ho rằng nhu cầu trong và ngoài nước sẽ tăng nhanh. Do đó, nếu Việt Nam tăng năng lực cạnh tranh sẽ mở rộng sản xuất và xuất khẩu.
Ngoài ra, môi trường kinh doanh thuận lợi, pháp luật, chính sách rõ ràng, doanh nghiệp sẽ tích cực đầu tư vào những lãnh vực mới mà họ khám phá qua hoạt động nghiên cứu triển khai.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần thâm sâu công nghiệp hóa thông qua nỗ lực sản xuất thay thế nhập khẩu từ Trung Quốc và Hàn Quốc.
“Dĩ nhiên là không thể và không cần thay thế tất cả trong ngắn hạn hay trung hạn, nhưng cần có chiến lược, chính sách ngay bây giờ để thực hiện từng bước. Trước hết là có chính sách phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ”, vị giáo sư khuyến nghị.
Với công nghiệp hỗ trợ, ông Thọ đề xuất ban hành luật phát triển công nghiệp hỗ trợ, thời gian 5 năm để hỗ trợ doanh nghiệp tham gia về vốn, thuế…
Ông cũng đề xuất lập Ban đặc trách phát triển công nghiệp hỗ trợ với nhiệm vụ vạch ra chính sách cụ thể và theo dõi việc thực thi, định kỳ báo cáo với lãnh đạo về thành quả.
Ban đặc trách sẽ làm việc ngay với đại diện doanh nghiệp lớn và FDI để đưa ra lộ trình phát triển công nghiệp hỗ trợ, lập danh mục thứ tự ưu tiên các ngành cần phát triển và từng bước mở rộng danh mục này.
“Với quyết tâm cải cách thể chế của lãnh đạo hiện nay và với các đề xuất về chính sách, tôi tin là Việt Nam có thể phát triển tốc cộ cao hơn hiện nay trong thời gian tới”, ông Thọ nhấn mạnh.
Kiều Mai