Nên cấm dùng từ 'quốc tế', 'quốc gia' trong đặt tên trường từ đại học lẫn phổ thông

Nên cấm dùng từ 'quốc tế', 'quốc gia' trong đặt tên trường từ đại học lẫn phổ thông
8 giờ trướcBài gốc
Điều 3 Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục đại học sửa đổi nêu, nguyên tắc chung khi đặt tên cơ sở giáo dục đại học không được sử dụng các từ, cụm từ mang tính “quốc gia” hoặc thể hiện vị thế đặc biệt (“quốc tế”, “quốc gia”, “Việt Nam”, “Hồ Chí Minh”, “International”, “National”, “State”) trừ khi được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Theo lãnh đạo nhiều trường đại học, việc "siết" tên gọi là cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Lý do chính là sự gia tăng nhanh chóng của các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam, dẫn đến tình trạng cạnh tranh khốc liệt và đôi khi lạm dụng tên gọi để quảng bá. Tuy nhiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên xem xét áp dụng một số biện pháp linh hoạt để đảm bảo các trường thuộc diện phải điều chỉnh tên gọi có thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng.
Hệ thống giáo dục công bằng hơn, nhưng cần thời gian chuyển tiếp để tránh rối loạn
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Thái Doãn Thanh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh nhận định, đề xuất của Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể coi là một bước đi hợp lý nhằm tăng cường tính minh bạch và chuẩn hóa trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Việc cấm sử dụng các từ mang tính “vị thế đặc biệt” như “quốc gia”, “quốc tế”, “Việt Nam” hay “Hồ Chí Minh” (trừ khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt) giúp tránh tình trạng các trường lạm dụng tên gọi để tạo ấn tượng sai lệch về quy mô, chất lượng hoặc liên kết.
Tiến sĩ Thái Doãn Thanh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường
Trong bối cảnh giáo dục đại học đang phát triển nhanh chóng với sự tham gia của nhiều trường tư và trường quốc tế, quy định này có thể góp phần bảo vệ quyền lợi người học bằng cách đảm bảo tên trường phản ánh đúng thực tế pháp lý và hoạt động.
“Tuy nhiên, tôi nhận thấy có phần hạn chế là nó có thể làm giảm sự linh hoạt trong việc xây dựng thương hiệu, đặc biệt với các trường đã đầu tư lâu dài vào tên gọi mang tính quốc tế để thu hút sinh viên nước ngoài hoặc đối tác. Tổng thể, đề xuất này tích cực nếu được áp dụng linh hoạt, tránh ‘một kích thước phù hợp tất cả’.
Bởi việc ‘siết’ tên gọi là cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Lý do chính là sự gia tăng nhanh chóng của các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam, dẫn đến tình trạng cạnh tranh khốc liệt và đôi khi lạm dụng tên gọi để quảng bá. Nhiều trường sử dụng từ "quốc tế" hoặc "quốc gia" để tạo ấn tượng về chất lượng cao, nhưng thực tế có thể chưa tương xứng, gây nhầm lẫn cho phụ huynh và sinh viên - những người thường dựa vào tên trường để đánh giá uy tín ban đầu.
Trong thời đại số hóa và toàn cầu hóa, thông tin dễ bị thao túng qua marketing, nên quy định này giúp xây dựng lòng tin vào hệ thống giáo dục, tránh các trường hợp ‘mượn’ danh nghĩa quốc gia để thu hút đầu tư hoặc sinh viên. Tuy nhiên, cần thiết không có nghĩa là không có rủi ro, vì nếu siết quá chặt, có thể ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh quốc tế của các trường Việt Nam, đặc biệt khi so sánh với các quốc gia lân cận như Singapore hay Thái Lan, nơi tên gọi linh hoạt hơn”, thầy Thanh nêu quan điểm.
Theo thầy Thanh, nếu quy định được ban hành, các trường trong tên gọi có chữ “quốc tế” sẽ phải đối mặt với nhiều tác động cụ thể.
Thứ nhất, về thương hiệu, họ có thể phải đổi tên, dẫn đến mất nhận diện đã xây dựng qua nhiều năm, kèm theo chi phí tái thiết kế logo, tài liệu và chiến dịch quảng bá.
Thứ hai, về tuyển sinh, tên gọi mới có thể kém hấp dẫn hơn, đặc biệt với sinh viên quốc tế hoặc phụ huynh coi trọng yếu tố “quốc tế”, dẫn đến giảm số lượng đăng ký ban đầu, dù chất lượng đào tạo không thay đổi.
Thứ ba, về hợp tác quốc tế, các đối tác nước ngoài có thể do dự hơn khi tên trường không còn gợi ý quy mô lớn, ảnh hưởng đến các chương trình trao đổi, nghiên cứu chung hoặc tài trợ. Đơn cử một trường “quốc tế” dễ dàng hơn trong việc liên kết với các tổ chức như ASEAN hay EU.
Thứ tư, đối với người học, sinh viên hiện tại có thể lo lắng về giá trị bằng cấp sau khi đổi tên, dù thực tế không ảnh hưởng pháp lý, nhưng có thể gây xáo trộn tâm lý và giảm uy tín trên thị trường lao động.
Sinh viên Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh minh họa: website nhà trường
“Tổng thể, tác động ngắn hạn là tiêu cực, nhưng dài hạn có thể thúc đẩy các trường tập trung vào chất lượng thực tế thay vì tên gọi.
Mặc khác, việc buộc điều chỉnh tên trường sẽ tạo ra các tác động đa chiều. Đối với nhà trường, các đơn vị sẽ bỏ ra chi phí tài chính cao cho việc cập nhật hệ thống hành chính, website, giấy tờ pháp lý và tài liệu học thuật; đồng thời, có thể dẫn đến gián đoạn hoạt động như phải thông báo cho sinh viên, đối tác và cơ quan quản lý.
Đối với xã hội, điểm tích cực là tăng tính minh bạch, giúp phụ huynh và sinh viên lựa chọn trường dựa trên chất lượng thực chứ không phải tên gọi, góp phần nâng cao chuẩn mực giáo dục quốc gia. Và xã hội hưởng lợi từ một hệ thống giáo dục công bằng hơn, nhưng cần thời gian chuyển tiếp để tránh rối loạn”, thầy Thanh cho biết.
Từ góc nhìn thực tiễn, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất Bộ Giáo dục và Đào tạo áp dụng một số biện pháp linh hoạt.
Một là, áp dụng “grandfather clause” - cho phép các trường hiện tại giữ nguyên tên nếu chứng minh được chất lượng và không gây nhầm lẫn, chỉ áp dụng quy định mới cho trường thành lập sau.
Hai là, thiết lập cơ chế phê duyệt trường hợp đặc biệt dựa trên tiêu chí rõ ràng như xếp hạng quốc tế, số lượng hợp tác, hoặc đóng góp quốc gia, để tránh cấm tuyệt đối.
Ba là, kéo dài thời gian chuyển tiếp (ví dụ 2-3 năm) để các trường chuẩn bị, kèm hỗ trợ tư vấn từ Bộ về xây dựng thương hiệu mới.
Bốn là, kết hợp với các biện pháp khác như tăng cường kiểm tra chất lượng đào tạo thay vì chỉ tập trung vào tên gọi, để đảm bảo quản lý nhà nước hiệu quả mà không làm gián đoạn hoạt động.
Năm là, mở rộng lấy ý kiến từ các trường, chuyên gia và xã hội để tinh chỉnh dự thảo, giúp quy định vừa chặt chẽ vừa thực tế.
Cùng bàn vấn đề này, Hiệu trưởng một trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh nhận định, việc siết chặt quy định về đặt tên các cơ sở giáo dục đại học là phù hợp với yêu cầu thực tiễn hiện nay.
Theo vị hiệu trưởng, tên gọi của một trường đại học không đơn thuần là một yếu tố thương hiệu mà trước hết phải phản ánh đúng bản chất, chức năng và trách nhiệm mà cơ sở đó đang thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân. Pháp luật hiện hành đã có những quy định tương đối rõ ràng về điều kiện để một cơ sở giáo dục đại học được sử dụng tên “quốc gia” hay “quốc tế”.
Do đó, việc siết chặt lại quy định về đặt tên là nhằm bảo đảm sự thống nhất giữa tên gọi và hoạt động, tránh tình trạng nhiễu loạn thông tin đối với người học và phụ huynh. Đặc biệt, trong bối cảnh giáo dục đại học ngày càng hội nhập sâu rộng, một tên gọi không chính xác có thể tạo ra những hiểu lầm khi các trường làm việc với đối tác quốc tế, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và hình ảnh của cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
“Nếu dự thảo nghị định được thông qua, việc buộc một số trường đại học hiện nay đang sử dụng các cụm từ không phù hợp trong tên gọi phải thay đổi tên gọi chắc chắn sẽ gây ra những tác động nhất định.
Trong giai đoạn đầu, các trường có thể gặp khó khăn trong công tác tuyển sinh, thậm chí chịu ảnh hưởng về thị phần giáo dục. Tuy nhiên, tôi cho rằng không thể vì lo ngại những khó khăn trước mắt mà tiếp tục duy trì những yếu tố chưa đúng với quy định và bản chất hoạt động của cơ sở đào tạo”, vị hiệu trưởng nêu quan điểm.
Trước ý kiến cho rằng quy định siết chặt việc đặt tên có thể ảnh hưởng đến quyền tự chủ đại học, vị hiệu trưởng cho rằng cần nhìn nhận vấn đề này một cách đầy đủ và đúng bản chất. Theo thông lệ quốc tế và quy định của Việt Nam, tự chủ đại học bao gồm ba trụ cột chính là tự chủ về học thuật, tự chủ về tài chính và tự chủ về tổ chức - nhân sự.
Trong khi đó, việc đặt tên trường lại thuộc phạm vi quản lý nhà nước, gắn với trách nhiệm của cơ quan quản lý trong việc bảo đảm trật tự, kỷ cương và sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học. Do đó, Nhà nước có trách nhiệm đặt ra những “hàng rào kỹ thuật” cần thiết để bảo vệ lợi ích chung của xã hội và người học.
“Do đó, việc siết chặt quy định về đặt tên các trường đại học trong dự thảo nghị định lần này là một điều chỉnh cần thiết, phù hợp với chức năng quản lý nhà nước và yêu cầu phát triển bền vững của giáo dục đại học. Dù có thể gây ra những xáo trộn nhất định, nhưng về lâu dài, quy định này sẽ góp phần tạo lập một môi trường giáo dục đại học minh bạch, chuẩn mực và phản ánh đúng thực chất, qua đó củng cố niềm tin của xã hội và nâng cao uy tín của các cơ sở đào tạo”, vị Hiệu trưởng bày tỏ.
Đề xuất mở rộng phạm vi áp dụng đối với bậc phổ thông
Một số ý kiến cho rằng, không chỉ ở bậc đại học, nguyên tắc chung khi đặt tên trường không được sử dụng các từ, cụm từ mang tính “quốc gia” hoặc thể hiện vị thế đặc biệt trừ khi được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cần được mở rộng cho cả bậc phổ thông.
Bày tỏ quan điểm về ý kiến trên, Thạc sĩ Nguyễn Thị Minh Thúy - Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở và Trung học phổ thông Nguyễn Siêu (Hà Nội) nhận định: “Bộ Giáo dục và Đào tạo dự kiến cấm các trường đại học sử dụng những cụm từ như ‘quốc gia’, ‘quốc tế’ trong tên gọi nhằm tăng cường quản lý và bảo đảm tính minh bạch trong việc định danh cơ sở giáo dục. Trên cơ sở đó, tôi cho rằng Bộ nên xem xét mở rộng phạm vi áp dụng quy định này đối với cả bậc giáo dục phổ thông.
Bởi nếu quy định chỉ áp dụng ở bậc đại học, trong khi bậc phổ thông chưa được điều chỉnh tương ứng sẽ có nguy cơ thiếu đồng bộ trong quản lý, đồng thời phát sinh tình trạng sử dụng tên gọi chưa phù hợp với loại hình và phạm vi hoạt động của các trường, dẫn đến khả năng gây hiểu nhầm cho người học, phụ huynh và xã hội”.
Thạc sĩ Nguyễn Thị Minh Thúy - Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở và Trung học phổ thông Nguyễn Siêu (Hà Nội). Ảnh: Nhân vật từng cung cấp
Theo cô Thúy, thực tế hiện nay cho thấy, tại nhiều đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, không ít trường tư đang sử dụng các cụm từ “quốc tế”, “Việt Nam” hoặc những tên gọi mang hàm ý tương tự trong tên trường và hoạt động quảng bá. Trong khi đó, phần lớn các trường này vẫn hoạt động hoàn toàn trong hệ thống giáo dục quốc dân, dạy chương trình trong nước, không đáp ứng đầy đủ các tiêu chí của một trường quốc tế theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Do đó, việc sử dụng những tên gọi này rất dễ gây hiểu nhầm cho phụ huynh, học sinh và xã hội.
“Theo tôi, tên gọi của trường học không chỉ là vấn đề hình thức, mà còn phản ánh loại hình, mô hình đào tạo và cơ chế quản lý. Trên thế giới, khái niệm trường quốc tế gắn với những tiêu chí rất rõ ràng, từ chương trình đào tạo, đội ngũ giáo viên, ngôn ngữ giảng dạy cho đến tỷ lệ học sinh quốc tế và sự kiểm định của các tổ chức nước ngoài. Nếu không đạt các tiêu chuẩn trên mà vẫn gắn mác ‘quốc tế’, thì bản chất đó chỉ là một tên gọi mang tính quảng cáo, dễ tạo ra ‘trường ảo’, nhưng không tương xứng về chất lượng đào tạo.
Tương tự, việc đưa các cụm từ như "quốc gia" hay "Việt Nam" vào tên trường học cũng cần được quản lý chặt chẽ. Khi dịch ra tiếng nước ngoài, những tên gọi này dễ khiến cộng đồng quốc tế hiểu rằng đó là những cơ sở giáo dục trọng điểm cấp quốc gia. Điều này không chỉ gây nhầm lẫn mà còn ảnh hưởng đến tính minh bạch và uy tín chung của hệ thống giáo dục”, cô Thúy nêu quan điểm.
Cô Thúy cho biết, hiện nay, phụ huynh lựa chọn trường học cho con không chỉ dựa vào cái tên mà phụ thuộc lớn vào chất lượng giáo dục, uy tín của đội ngũ giáo viên, chương trình đào tạo và môi trường học tập. Một ngôi trường có chất lượng thực sự sẽ không bị tác động tiêu cực chỉ vì tên gọi được đưa về đúng với bản chất.
“Ngược lại, việc tiếp tục để tồn tại những tên gọi dễ gây hiểu nhầm mới là rủi ro lâu dài, bởi khi phụ huynh nhận ra sự khác biệt giữa tên gọi quảng cáo và thực tế, niềm tin sẽ bị ảnh hưởng. Do đó, việc mở rộng quy định cấm sử dụng các cụm từ "quốc gia", "quốc tế" áp dụng cho cả bậc phổ thông là cần thiết, nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng giữa các loại hình trường học và góp phần xây dựng một hệ thống giáo dục chuẩn mực”, cô Thúy bày tỏ.
Yên Đan
Nguồn Giáo Dục VN : https://giaoduc.net.vn/nen-cam-dung-tu-quoc-te-quoc-gia-trong-dat-ten-truong-tu-dai-hoc-lan-pho-thong-post256718.gd