Hội nghị khoa học CCUS 2025 tổ chức tại TPHCM đầu tháng 12 đã phác họa một điều bất ngờ: Việt Nam sở hữu những bể trầm tích có thể lưu trữ hàng chục tỉ tấn CO₂, đủ để mở ra một ngành kinh tế mới – “kinh tế carbon thấp”.
Bản đồ carbon của Việt Nam đang dần thành hình
Lâu nay, CCUS (Carbon Capture, Utilization and Storage – thu giữ, sử dụng và lưu trữ CO₂) vẫn được xem là công nghệ “xa vời” và chỉ phù hợp với các quốc gia giàu có như Mỹ, Ý, vùng Trung Đông. Nhưng loạt nghiên cứu trình bày tại hội nghị khoa học 2025 CCUS đầu tháng 12 tại TPHCM, do Đại học Dầu khí Việt Nam (PVU) phối hợp Học viện Mỏ và Công nghệ New Mexico Tech (Mỹ) tổ chức, đã cho thấy điều ngược lại: Việt Nam sở hữu tiềm năng địa chất thuộc nhóm lớn nhất khu vực.
Bể trầm tích Nam Côn Sơn được các nhà khoa học đánh giá có khả năng lưu trữ carbon lớn. Ảnh chụp slide trình bày tại hội nghị.
Theo Viện Dầu khí Việt Nam (VPI), bể Sông Hồng ở phía Bắc có khả năng lưu trữ 38,1 tỉ tấn CO₂. Ở phía Nam, nhóm nghiên cứu của Đại học Bách khoa TPHCM cho thấy Đồng bằng sông Cửu Long có hai tầng nước mặn sâu Miocen với dung tích từ 70 đến 250 tỉ tấn CO₂. Những con số này vượt xa hàng trăm lần lượng phát thải quốc gia hàng năm, đồng thời mở ra khả năng tiếp nhận CO₂ không chỉ từ các doanh nghiệp phát thải trong nước mà lưu trữ cho cả từ các nước trong vùng.
Nói cách khác, về mặt vật lý địa chất, Việt Nam có “kho chứa carbon” đủ lớn để bước vào kỷ nguyên giảm phát thải chủ động.
Khi công nghệ không còn là rào cản
Một trong những vướng mắc của CCUS là xác định chính xác tầng chứa (reservoir) đủ rỗng (porosity) và đủ thấm (permeability) để CO₂ có thể phân tán và nằm ổn định dưới sâu hàng trăm năm. Tại hội thảo, PVU giới thiệu mô hình K-ARPT (Permeability-linked Adaptive Rock Physics Template), công cụ giúp phân vùng tầng chứa bằng cách mô phỏng mối quan hệ vận tốc sóng - độ rỗng - độ thấm.
Phó giáo sư Phạm Huy Giao đến từ PVU cho thấy K-ARPT có thể xác định chính xác các “điểm ngọt” (sweet spots) có độ thấm 20 - 50 mD trong tầng cát turbidite tại mỏ Hải Thạch – Mộc Tinh ở thềm lục địa phía Đông Nam Việt Nam. Việc này giúp giảm rủi ro bơm ép thất bại, một vấn đề từng khiến nhiều dự án lưu trữ carbon trên thế giới đội chi phí.
Ở phía đối tác Mỹ, nhóm New Mexico Tech (NMT) trình bày hệ thống Smart Proxy Model, mô hình dự đoán nhanh hành vi của CO₂ dưới lòng đất mà không phải mô phỏng vỉa truyền thống mất hàng tuần. Ngoài ra, nghiên cứu CO₂-EOR (Enhanced Oil Recovery – tăng cường thu hồi dầu bằng CO₂) tại mỏ X (giấu tên vì đang khai thác thương mại) ngoài khơi Việt Nam cho thấy có thể tăng thêm 180.000 m³ dầu, đồng thời lưu giữ được 50% lượng CO₂ bơm vào, tức là nửa lượng CO₂ không quay trở lại bề mặt.
Khi công nghệ đã chín muồi, rào cản lớn nhất của Việt Nam không còn nằm ở mặt kỹ thuật.
Không có lưu trữ, mục tiêu Net Zero 2050 khó thành hiện thực
Net Zero không chỉ là câu chuyện của năng lượng tái tạo. Các ngành như xi măng, thép, hóa chất, nhiệt điện, nơi phát thải chiếm tới 40% cả nước, đến từ quá trình công nghệ mà không thể giảm sâu mà không có lưu trữ. Quốc tế gọi là nhóm ngành "khó giám phát thải" (hard-to-abate sectors).
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), riêng chi phí nâng cấp lưới điện và tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo có thể khiến Việt Nam tăng đầu tư thêm hàng tỉ đô la mỗi năm. Trong khi đó, tận dụng các tầng chứa thềm lục địa Nam Bộ, bể Sông Hồng, Cửu Long, Nam Côn Sơn… sẵn có để bơm CO₂ lại có chi phí thấp hơn đáng kể, đặc biệt nếu tái sử dụng giếng dầu khí đã ngừng khai thác và hệ thống đường ống hiện hữu.
Hai lô 103 và 104 ngoài khơi Thanh Hóa trong ô có viền màu đỏ đậm, nơi được đánh giá có thể thí điểm bơm lưu trữ carbon sau năm 2030. Ảnh trên trang web của Tổng công ty Thăm dò và khai thác dầu khí.
Lưu trữ carbon không rẻ, nhưng rõ ràng rẻ hơn rất nhiều so với việc không triển khai và phải trả giá bằng chi phí carbon trong tương lai. Trên thị trường quốc tế, 1 tấn CO₂ thu giữ và lưu trữ có thể mang lại 20 - 40 đô la. Với dung tích lưu trữ hàng chục tỉ tấn, Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra một “tài sản carbon” mới và có thể Net Zero trước thời hạn 2050.
Việt Nam nên bắt đầu từ đâu?
Các diễn giả trong nước và quốc tế đã chỉ ra một lộ trình đơn giản, khả thi và phù hợp với điều kiện Việt Nam. Đó là bắt đầu bằng một dự án thí điểm nhỏ với hai khu vực thuận lợi nhất được khuyến nghị là tầng Miocen dưới ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là khu vực có dung tích lưu trữ ổn định, gần nguồn phát thải là các cụm nhà máy nhiệt điện điện, công nghiệp khí, khu công nghiệp. Khu vực thứ hai là bể Sông Hồng ở phía Bắc có dung tích lớn, tầng chắn dày.
Cả hai khu vực nói trên nên có dự án bơm ép 1-2 triệu tấn CO₂/năm là đủ để kiểm chứng mô hình, chi phí, rủi ro và xây dựng khung pháp lý cho vận hành lưu giữ CO₂.
Ngoài ra, hiện Việt Nam chưa có tiêu chuẩn giếng Class VI (loại giếng chuyên dụng cho thu giữ và lưu trữ carbon theo quy định của Mỹ), tức có quy định giám sát sau bơm ép 30 - 50 năm, có cơ chế xử lý trách nhiệm khi xảy ra rò rỉ CO₂. Đồng thời, tại hội nghị, các chuyên gia quốc tế cho biết ở các nước như Mỹ, việc lưu trữ carbon bằng cách tận dụng các giếng dầu, khi sẵn có được ưu đãi thuế, tín dụng của Chính phủ.
Với dung tích lưu trữ hàng chục tỉ tấn CO₂, Việt Nam hoàn toàn có thể thu hút dự án lưu trữ carbon xuyên biên giới cho các nước trong khu vực, tìm kiếm nguồn tài chính từ bán tín chỉ carbon nhờ bơm ép CO₂, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về giảm phát thải.
Hồng Văn