Cơn bão số 14 vừa qua đã gây ra trận lũ lịch sử tại Trung bộ - Tây Nguyên - Nam bộ, đặc biệt vùng Phú Yên (cũ). Ngay sau lũ, trên nhiều diễn đàn xuất hiện các ý kiến trái chiều về phát triển thủy điện. Tuy nhiên, câu hỏi quan trọng - cũng là yêu cầu khách quan khi nghiên cứu thiên tai là ệ thống bậc thang thủy điện trên sông Ba được bố trí có hợp lý về kinh tế - kỹ thuật không? Vì sao không xây đập thật cao, hồ chứa thật lớn để chống lũ? Và liệu có cần xây hệ thống "thoát lũ nhanh ra biển" phía sau hồ Sông Ba Hạ hay không?...
Đặc điểm địa hình khác biệt của miền Trung
Theo các TS Nguyễn Quy Hoạch, chuyên gia của Tạp chí Năng lượng Việt Nam, lưu vực sông Ba trải dài từ Gia Lai - Đắk Lắk xuống Phú Yên (cũ), địa hình dốc, hẹp, sông ngắn, độ dốc lớn, lũ tập trung nhanh. Đây là một trong những lưu vực "nhạy cảm lũ" nhất miền Trung. Do điều kiện địa hình và cấu trúc dòng chảy, lượng lũ chỉ trong vài giờ có thể vượt xa khả năng điều tiết của các hồ chứa nước vừa và nhỏ.
Thủy điện sông Ba Hạ từng xả lũ kỷ lục.
Hiện trên lưu vực sông Ba có gần 30 hồ chứa lớn, nhỏ. Tuy nhiên, chỉ 5 hồ được giao nhiệm vụ giảm lũ cho hạ du theo Quyết định 878/QĐ-TTg ngày 18 tháng 7 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ, bao gồm: Hồ An Khê - Ka Nak, hồ Sông Hinh, hồ Krông H'năng, hồ Ayun Hạ, hồ Sông Ba Hạ (ở hạ lưu, giữ vai trò quan trọng nhất).
Các chuyên gia cho biết, tổng dung tích phòng lũ của các hồ nêu trên khoảng 530 triệu m³, trong khi lượng nước về trong cơn bão số 14 được ước tính lên tới gần 2 tỷ m³ trong vài ngày. Điều này cho thấy: Ngay cả khi tất cả các hồ đều "rỗng" trước bão, chúng cũng chỉ có khả năng giữ lại 1/4 lượng nước lũ - và đó là trong điều kiện lý tưởng hiếm khi xảy ra.
Nhiều người đặt câu hỏi: "Nếu biết miền Trung hay lũ, sao không xây hồ thật lớn để điều tiết?" Về mặt cảm tính, đây là yêu cầu hợp lý. Nhưng với chuyên môn thủy lợi - thủy điện, cùng thực tế địa hình và địa chất của lưu vực sông Ba, câu trả lời là: Địa hình miền Trung không cho phép xây hồ chứa khổng lồ.
Miền Trung có đặc điểm cơ bản như sau: Lòng sông hẹp, dốc, hai bên là đồi núi cao. Không có các thung lũng rộng và sâu tự nhiên để tích nước. Nếu xây đập rất cao, khu vực bị ngập sẽ lan xa hàng chục km², ảnh hưởng đến đất rừng, đất nông nghiệp và khu dân cư.
Hệ quả là nếu xây đập cao để có hồ chứa nước lớn, thì chi phí giải phóng mặt bằng, di dời dân cư và tái định cư vượt xa tổng mức đầu tư thủy điện, không có tính khả thi về mặt kinh tế.
Địa chất yếu, rủi ro mất an toàn đập. Miền Trung có nhiều vùng địa chất karst, đứt gãy sâu, nền đá nứt vỡ. Xây đập cao hàng trăm mét tạo áp lực cực lớn lên thân đập và nền móng, dễ gây thấm, nứt và mất ổn định. Rủi ro sự cố đập - trong bối cảnh biến đổi khí hậu là không thể chấp nhận.
Lũ cực trị không thể được triệt tiêu chỉ nhờ hồ chứa. Ngay cả hồ lớn (như Dầu Tiếng, Trị An, Sơn La) cũng không thể ngăn được lũ lịch sử vượt thiết kế. Khi lượng mưa gấp đôi, hoặc gấp ba thiết kế, hồ đầy nhanh và phải xả lượng nước lớn để đảm bảo an toàn đập. Lúc đó hồ không còn khả năng cắt lũ, chỉ còn vai trò làm chậm đỉnh lũ. Do đó, kỳ vọng "xây hồ siêu lớn để hết lũ" là không thực tế.
Dự báo, điều hành, phối hợp liên hồ để phòng chống thiên tai
TS Nguyễn Quy Hoạch cho biết, nhìn khách quan, hệ thống thủy điện trên sông Ba được bố trí hợp lý trong điều kiện địa hình - địa chất và kinh tế, xã hội phù hợp. Hồ nhỏ, phân tầng từ thượng đến hạ du, phù hợp cấu trúc sông dốc, ngắn và hài hòa mục tiêu phát điện - cấp nước - cắt lũ hạn chế. Các hồ Sông Hinh, Krông H'năng, Sông Ba Hạ đã nhiều lần giảm được từ 10-40% đỉnh lũ, góp phần giảm lũ đáng kể trong các trận lũ vừa và lớn.
Bão số 14 có lượng nước về hồ Sông Ba Hạ vượt xa mọi trận lũ trong 20-30 năm qua. Khi hồ đầy, đỉnh lũ về liên tục, hồ buộc phải xả để đảm bảo an toàn công trình. Đây là yêu cầu bắt buộc của Quy trình vận hành 878, để tránh mất an toàn đập, tránh thảm họa vỡ hồ - điều còn nguy hiểm hơn nhiều so với ngập lụt.
Thủy điện không gây lũ, nhưng có thể làm thay đổi diễn biến lũ (nếu vận hành không chuẩn), trong đó nếu hồ giữ mực nước quá cao trước mưa lũ sẽ làm mất dung tích đón lũ. Còn nếu xả dồn khi hạ du đang ngập sẽ làm tăng tốc độ ngập. Do đó, yếu tố quan trọng nhất là dự báo - điều hành - phối hợp liên hồ chính xác sẽ giảm tối đa thiệt hại cho vùng hạ lưu công trình.
Gần đây, một số ý kiến đề xuất xây tuyến "thoát lũ khẩn cấp" từ hồ Sông Ba Hạ ra biển Tuy Hòa. Đây là ý tưởng tốt về mặt mong muốn, nhưng không khả thi về mặt kỹ thuật, kinh tế và an toàn, bởi địa hình hạ du bằng phẳng, không đủ độ dốc. Khu vực Tuy Hòa là đồng bằng ven biển, độ dốc trung bình rất nhỏ (<0,5%), không đủ điều kiện để dẫn dòng lũ hàng nghìn m³/s ra biển mà không gây xói mòn, phá hủy công trình.
Hai là tuyến kênh sẽ cắt qua khu dân cư, đất sản xuất và hạ tầng. Muốn xây kênh rộng 100-200 m, sâu 5-8 m phải di dời hàng nghìn hộ dân, phá vỡ toàn bộ hạ tầng đô thị và nông nghiệp. Chi phí vượt xa lợi ích.
Ba là nguy cơ hình thành "sông mới", gây thảm họa ngược. Lũ lớn đi vào kênh có thể phá bờ, mở rộng dòng chảy, cuốn trôi khu dân cư. Các chuyên gia thủy lợi khẳng định: Đây là rủi ro không thể chấp nhận.
Bốn là tỷ lệ hiệu quả - chi phí thấp: Ngay cả khi xây được kênh, nó chỉ có tác dụng trong vài trận lũ cực đoan, trong khi chi phí đầu tư - xã hội là khổng lồ.Vì vậy, không cần và không nên xây hệ thống thoát lũ nhanh ra biển phía hạ lưu Nhà máy Thủy điện Sông Ba Hạ. Giải pháp thay thế hiệu quả hơn nhiều nằm trong nhóm "thoát lũ tự nhiên + cảnh báo sớm + vận hành linh hoạt".
Tô Hội