Ảnh minh họa
Trước nhiều ngã rẽ
Việc tín dụng khách hàng doanh nghiệp tăng trưởng mạnh và trở thành động lực dẫn dắt tín dụng tại các ngân hàng bán lẻ như thời gian qua đang phản ánh chiến lược trước mắt của các nhà băng này trong bối cảnh tệp khách hàng cá nhân chưa thể phục hồi sớm như kỳ vọng. Nhưng về dài hạn, lựa chọn của các nhà băng là khác biệt.
Tại ACB, trong suốt giai đoạn hàng thập kỷ từ 2024 trở về trước, ngân hàng đã xây dựng một chiến lược ngân hàng bán lẻ xuyên suốt và phát triển thị phần ổn định khoảng 3,7% tại cuối 2024, tệp khách hàng cá nhân có thu nhập trung bình cao cũng như các doanh nghiệp SME. Đến cuối năm 2024, cho vay cá nhân chiếm gần 2/3 danh mục cho vay của ngân hàng này.
Tuy nhiên từ năm 2024, một sự chuyển dịch chiến lược đã diễn ra khi ban lãnh đạo ACB thường xuyên nhấn mạnh câu chuyện gắn định hướng cho vay và cung cấp sản phẩm dành cho doanh nghiệp xuất khẩu, sản xuất, FDI…
Tại thời điểm cuối năm 2024, cho vay khách hàng doanh nghiệp lớn tại ACB đạt hơn 53 nghìn tỷ đồng, tăng 82% so với năm 2023, giúp tăng trưởng tín dụng đạt hơn 18,4%, cao nhất trong 7 năm trở lại đây. Quy mô cho vay nhóm khách hàng doanh nghiệp lớn này tính đến hết 2024 ước chiếm khoảng 20% tỷ trọng trong dư nợ cho vay doanh nghiệp và 8% tổng cho vay khách hàng của ACB, phản ánh dư địa mở rộng còn dồi dào.
Giới phân tích đánh giá chiến lược phát triển cân bằng hơn giữa bán lẻ, bán buôn và tiếp cận để tích lũy, làm dày tệp khách hàng mới của ACB là lựa chọn hợp thời dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, cũng như cho thấy tính đón đầu tương lai khi Việt Nam được đánh giá cao về tiềm năng thu hút FDI.
Song trong dài hạn, để khai thác được khách doanh nghiệp lớn, nhiều doanh nghiệp FDI có quan hệ chặt với ngân hàng quốc tế hoặc nhận hỗ trợ tài chính từ công ty mẹ, thì ACB vẫn cần đề xuất giá trị khác biệt để cạnh tranh. Cùng đó, việc đảm bảo biên lãi sẽ tiếp tục là bài toán quan trọng với ngân hàng trong bối cảnh dịch chuyển chiến lược, nhất là khi ACB đặt mục tiêu tăng trưởng dư nợ tương đương trung bình ngành trong năm nay.
VPBank sau giai đoạn 2022 - 2023 chịu ảnh hưởng nặng nề từ tín dụng tiêu dùng cũng đang cho thấy sự chuyển hướng chiến lược tín dụng kể từ 2024.
Chia sẻ tại ĐHĐCĐ thường niên năm ngoái, lãnh đạo VPBank cho biết ngân hàng đặt mục tiêu trọng tâm tăng trưởng ở phân khúc chiến lược là khách hàng cá nhân và SME, nhưng đồng thời tìm kiếm cơ hội phát triển trong phân khúc FDI được đánh giá là nhiều tiềm năng. "Trước đây, VPBank là ngân hàng bán lẻ, tập trung vào SME thì giờ với SMBC, VPBank thành ngân hàng đa năng, không chỉ tập trung vào SME mà cả doanh nghiệp lớn", CEO VPBank khẳng định.
Thực tế, tỷ trọng cho vay cá nhân tại VPBank đã giảm liên tục trong nhiều quý qua, xuống còn hơn 38% từ mức 58% hồi cuối năm 2022. Động lực tăng trưởng tín dụng 9 tháng đầu năm của ngân hàng không đến nhiều từ mảng tín dụng tiêu dùng và dư nợ cho vay của công ty tài chính tiêu dùng FE Credit cuối quý III gần như vẫn đi ngang so với đầu năm.
Tuy vậy, chiến lược đa dạng hóa danh mục cho vay đang mang về những kết quả tích cực, đưa VPBank trở lại quỹ đạo tăng trưởng ấn tượng cả về quy mô dư nợ và hiệu quả kinh doanh, một phần nhờ lợi thế hệ sinh thái cũng như trợ lực từ đối tác ngoại SMBC.
Tại các ngân hàng bán lẻ còn lại như VIB, TPBank, Sacombank; sự trung thành với chiến lược ngân hàng bán lẻ vẫn được khẳng định. Tuy nhiên, động thái dịch chuyển chiến lược cho vay theo hướng đa dạng hóa, chuyển sang các phân khúc khác như cho vay SME... cũng được thể hiện rõ rệt trong cơ cấu tín dụng những quý gần đây.
Nỗ lực đa dạng hóa, tìm kiếm những động lực mới là phù hợp với xu hướng tăng trưởng dài hạn, bởi như tại VIB, phân khúc cho vay mua ô tô – từng là một trong những mũi nhọn tăng trưởng – đã dần cho thấy dấu hiệu bão hòa, đồng thời cũng chịu áp lực cạnh tranh mạnh mẽ từ các dòng xe điện vốn không phải thế mạnh của ngân hàng. Còn các sản phẩm cho vay KHCN có tỷ trọng lớn như vay mua nhà, sửa nhà cũng gặp phải áp lực cạnh tranh lớn khi cung tín dụng được đẩy mạnh hơn so với nhu cầu vay.
Việc cơ cấu lại danh mục, dù phải đánh đổi bằng biên lợi suất cho vay có thể không hấp dẫn như giai đoạn 2021–2023, nhưng sẽ phần nào hạn chế rủi ro thu nhập dao động mạnh thất thường trong giai đoạn thị trường biến động.
Các chuyên gia nhận định ngành ngân hàng bán lẻ đang trải qua giai đoạn phân hóa và sàng lọc, khi một số nhà băng nỗ lực tái định hình chiến lược để cân bằng tăng trưởng theo hướng đi bằng hai chân, thích ứng với bối cảnh mới còn số khác đào sâu vào 'mỏ vàng' bán lẻ và tận dụng những lợi thế truyền thống. Triển vọng dài hạn được đánh giá là tích cực, nhưng chỉ những ngân hàng có chiến lược linh hoạt, hệ sinh thái mạnh và khả năng quản trị chi phí hiệu quả mới có thể tăng tốc khi lĩnh vực tín dụng bán lẻ chưa thể khởi sắc nhanh chóng như kỳ vọng.
Hướng đến mô hình tăng trưởng bền vững hơn
Trong khi nhiều yếu tố bao gồm chiến lược tạm chuyển hướng sang cho vay doanh nghiệp tiềm ẩn tác động đến lợi suất tài sản trong ngắn hạn, một khía cạnh tích cực là sự cải thiện chất lượng tài sản ở hầu hết các ngân hàng bán lẻ - biểu hiện của mô hình tăng trưởng bền vững hơn giai đoạn trước đó.
Ảnh: T.D tổng hợp từ BCTC
VPBank là một trong những nhà băng có tỷ lệ nợ xấu (NPL) giảm mạnh nhất hệ thống trong quý III cũng như 9 tháng đầu năm, với sự chuyển đổi từ mô hình “tăng trưởng cao – rủi ro cao” sang một mô hình tăng trưởng bền vững hơn.
Tính đến 30/9/2025, ước tính NPL tại VPBank đã giảm về 3,51% từ mức 4,17% hồi đầu năm và 3,97% hồi cuối quý II trong khi tín dụng mở rộng ấn tượng. NPL ước tính tại ngân hàng mẹ và FE Credit lần lượt là 2,63%, giảm 0,18 điểm % so với quý II và 16,6%, giảm 2,4 điểm % so với quý II, phản ánh kết quả của quá trình tái cấu trúc.
Nếu tính theo Thông tư 31, NPL hợp nhất của VPBank tại thời điểm cuối quý III/2025 đã giảm xuống dưới 3% – lần đầu tiên sau nhiều quý – trong khi nợ xấu riêng lẻ giảm còn 2,23%, kết quả của xu hướng lựa chọn khách hàng thận trọng hơn kết hợp với việc siết chặt tiêu chuẩn thẩm định tín dụng.
Tại ACB, với chiến lược mở rộng thận trọng lâu nay, ghi nhận NPL tính đến hết quý III/2025 là 1,12%, giảm từ mức 1,51% hồi đầu năm. Tỷ lệ nợ nhóm 2 ổn định ở mức khoảng 0,48%, đi ngang so với đầu năm.
Chất lượng tài sản cải thiện mạnh mẽ và thuộc nhóm chất lượng tài sản tốt nhất toàn ngành nhờ nỗ lực xử lý nợ xấu được đẩy mạnh trong 9 tháng đầu năm. Tỷ lệ sử dụng trích lập cụ thể đạt 2,6 lần, cao hơn nhiều so với mức 78% của năm 2024. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu tiếp tục cải thiện lên trên 80%, được hỗ trợ bởi danh mục cho vay có tài sản đảm bảo cao.
Tại VIB, tỷ lệ nợ xấu tính đến hết quý III/2025 đạt 3,32%, giảm từ mức 3,51% hồi đầu năm. Tỷ lệ nợ nhóm 2 cũng cải thiện nhẹ (-5%), phản ánh triển vọng giảm áp lực hình thành nợ xấu mới.
Trong những quý tiếp theo, triển vọng chất lượng danh mục của VIB kỳ vọng sẽ cải thiện tích cực hơn nữa nhờ Luật hóa Nghị quyết 42 chính thức có hiệu lực hỗ trợ xử lý nợ xấu, đặc biệt khi VIB có tỷ lệ tài sản bảo đảm là động sản ở mức cao cùng với bất động sản thế chấp chủ yếu là nhà phố, khu vực trung tâm...
Nhưng không phải ngân hàng bán lẻ nào cũng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu đi xuống, TPBank và Sacombank là hai nhà băng trong nhóm bán lẻ có NPL tiếp tục tăng so với đầu năm.
Tại Sacombank, NPL cuối quý III là 2,75%, tăng từ mức 2,4% hồi đầu năm và là mức NPL cao nhất kể từ đầu năm 2022. Còn tại TPBank, NPL cuối quý III ước khoảng 2,23%, tăng từ 1,52% hồi đầu năm và 2,05% hồi cuối quý II, một phần do một số biến động kinh tế. Tuy nhiên, cả hai ngân hàng đang thể hiện nỗ lực cải thiện chất lượng tài sản: TPBank đang tái cơ cấu danh mục khi giảm mạnh tỷ trọng TPDN nắm giữ và tiếp tục tập trung vào các phân khúc cho vay mua nhà...theo đúng định hướng Chính phủ; trong khi Sacombank chuẩn bị hoàn thành đề án tái cấu trúc sau nhiều năm triển khai.
Nhìn chung, với việc Luật hóa Nghị quyết 42 chính thức có hiệu lực, giới chuyên gia đánh giá các ngân hàng bán lẻ sẽ được hưởng lợi rõ rệt hơn và có vị thế cải thiện chất lượng tài sản tốt hơn.
Cụ thể, Luật hóa NQ 42 sẽ tạo ra nền tảng pháp lý cho quá trình xử lý nợ xấu, giúp rút ngắn thời gian giải quyết và nâng cao hiệu quả công tác xử lý nợ, đẩy nhanh quá trình bán thanh lý tài sản để tất toán nợ trước khi các khoản nợ nhảy lên nhóm cao hơn, giảm bớt áp lực trích lập dự phòng cho toàn hệ thống ngân hàng. Trong đó, những ngân hàng tập trung cho vay bán lẻ; các khoản cho vay có quy mô nhỏ với tài sản bảo đảm có tính thanh khoản cao sẽ có nhiều lợi thế hơn trong việc cải thiện thu nhập ngoài lãi và giảm bớt áp lực trích lập dự phòng.
Diên Vỹ