Nội dung trên được quy định tại Điều 23 của Nghị định số 135/2025/NĐ-CP về chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các tổ chức tín dụng do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và tổ chức tín dụng có vốn nhà nước, ban hành ngày 12/6/2025. Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 8 năm 2025.
Theo quy định tại Điều 23, việc phân phối lợi nhuận sau khi đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và bù đắp lỗ được thực hiện theo trình tự cụ thể. Trước tiên là chia lãi cho các bên góp vốn liên kết (nếu có), tiếp theo là bù đắp khoản lỗ của các năm trước đã hết thời hạn được khấu trừ. Sau đó, tổ chức tín dụng phải trích 10% lợi nhuận sau thuế vào quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, với giới hạn tối đa không vượt quá vốn điều lệ.
Phần lợi nhuận còn lại sau các bước trên được tiếp tục phân phối vào các quỹ: quỹ dự phòng tài chính (tối đa 10%, không vượt quá 25% vốn điều lệ), quỹ đầu tư phát triển (tối đa 25%, không vượt vốn điều lệ), quỹ khen thưởng và phúc lợi cho người lao động, quỹ thưởng cho người quản lý theo quy định hiện hành. Sau khi hoàn tất các khoản trích lập này, tổ chức tín dụng mới được xem xét chia cổ tức.
Theo Điều 23, Nghị định số 135/2025/NĐ-CP, tổ chức tín dụng có vốn nhà nước được xếp loại B trở lên trong 3 năm liền và tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, sau khi được Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính thống nhất, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mới được chia cổ tức bằng cổ phiếu.
Cổ tức có thể được chia bằng tiền mặt hoặc bằng cổ phiếu. Tuy nhiên, trong trường hợp chia bằng cổ phiếu, tổ chức tín dụng phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về hiệu quả hoạt động và chất lượng tín dụng.
Cụ thể, chỉ những tổ chức tín dụng có vốn nhà nước được Ngân hàng Nhà nước xếp loại B trở lên trong 3 năm liền kề trước và có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% mới đủ điều kiện chia cổ tức bằng cổ phiếu.
Bên cạnh đó, việc chia cổ tức bằng cổ phiếu còn phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lấy ý kiến thống nhất với Bộ Tài chính trước khi trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và chấp thuận chủ trương.
Trường hợp chia cổ tức bằng tiền mặt, phần lợi nhuận tương ứng với phần vốn nhà nước góp trong tổ chức tín dụng phải được nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
Việc đánh giá và xếp loại tổ chức tín dụng được thực hiện dựa trên 5 tiêu chí chủ yếu: (1) doanh thu; (2) lợi nhuận sau thuế và tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu; (3) tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn; (4) tình hình chấp hành pháp luật; và (5) việc thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích (nếu có).
Về tiêu chí doanh thu, tổ chức tín dụng được xếp loại A nếu tổng doanh thu thực hiện bằng hoặc cao hơn kế hoạch; xếp loại B nếu đạt tối thiểu 90% kế hoạch; và xếp loại C nếu dưới 90%. Với tiêu chí thứ hai, tổ chức tín dụng có lợi nhuận sau thuế và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu được xếp loại A nếu cả hai chỉ số đều đạt hoặc vượt kế hoạch; xếp loại B nếu cả hai đạt tối thiểu 90% kế hoạch; và xếp loại C nếu một trong hai chỉ tiêu không đạt 90% kế hoạch. Trường hợp tổ chức có lỗ, nếu lỗ thực hiện thấp hơn mức lỗ kế hoạch thì xếp loại A; bằng kế hoạch thì xếp loại B; và cao hơn kế hoạch thì xếp loại C.
Đối với tiêu chí nợ xấu, tổ chức tín dụng được xếp loại A nếu có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% và tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn dưới 2% trên tổng dư nợ. Nếu tỷ lệ nợ xấu vượt 3,5% hoặc tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn vượt 2,5%, hoặc nếu hai tỷ lệ này vượt quá 110% so với kế hoạch thì tổ chức bị xếp loại C. Các trường hợp còn lại được xếp loại B.
Về tình hình chấp hành pháp luật, tổ chức tín dụng được xếp loại A khi không bị nhắc nhở quá hai lần bằng văn bản về việc chậm nộp hoặc sai sót trong báo cáo, đồng thời không bị xử phạt vi phạm hành chính nghiêm trọng, đặc biệt là trong các lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, thuế hoặc liên quan đến đạo đức nghề nghiệp.
Nếu tổ chức có hành vi vi phạm nghiêm trọng như lừa đảo, gian lận, trốn thuế, cung cấp thông tin sai lệch, bị cưỡng chế thi hành, hoặc có trên 20% số chi nhánh bị xử phạt thì sẽ bị xếp loại C. Các tổ chức không thuộc hai nhóm trên sẽ xếp loại B.
Cuối cùng, với tiêu chí thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích (nếu có), tổ chức tín dụng được xếp loại A nếu hoàn thành hoặc vượt mức kế hoạch về sản lượng và đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn; xếp loại B nếu hoàn thành tối thiểu 90% kế hoạch và chất lượng đạt yêu cầu; và xếp loại C nếu không đạt được mức 90% kế hoạch hoặc chất lượng không đạt chuẩn.
Kết quả xếp loại tổ chức tín dụng được tổng hợp như sau: tổ chức được xếp loại A nếu không có tiêu chí nào bị xếp loại C, và đồng thời tiêu chí 2 (lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận), tiêu chí 3 (nợ xấu) và tiêu chí 4 (tuân thủ pháp luật) phải đạt loại A. Tổ chức bị xếp loại C nếu có ít nhất hai trong ba tiêu chí quan trọng trên bị xếp loại C, hoặc cả hai tiêu chí 2 và 3 bị xếp loại B, và ba tiêu chí còn lại bị xếp loại C. Các trường hợp còn lại được xếp loại B.
Việc đánh giá và xếp loại này là cơ sở để cơ quan đại diện chủ sở hữu và cơ quan giám sát tài chính thực hiện quản lý, phân loại và hỗ trợ phù hợp với từng tổ chức tín dụng.
Kỳ Phong