NIM ở vùng đáy 5 năm, dự phòng cao nhất 3 năm
Theo báo cáo của FiinGroup, lợi nhuận quý II/2025 của toàn thị trường tăng tới 34,6% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 6 quý. Tuy nhiên, mức tăng trưởng lợi nhuận quý II của ngành ngân hàng lại chỉ bằng một nửa mức tăng trưởng chung toàn thị trường (chỉ tăng 17,8%).
Nguyên nhân chính khiến ngân hàng lãi mỏng là do NIM duy trì ở vùng đáy 5 năm sau nhiều quý thu hẹp, dư địa hồi phục vẫn còn hạn chế khiến thu nhập lãi thuần quý II của ngành ngân hàng chỉ tăng nhẹ (tăng 8,3% so với quý trước), tăng trưởng lợi nhuận của ngành được hỗ trợ chủ yếu từ thu nhập ngoài lãi (tăng 19,7%).
Một nguyên nhân nữa khiến lợi nhuận ngân hàng tăng trưởng thấp hơn bình quân chung là do chi phí dự phòng tăng mạnh: tăng 20% so với quý trước và tăng cao nhất trong hơn 3 năm.
Trong quý II/2025, tín dụng ngành ngân hàng cải thiện (tăng 6,3% so với quý trước), dẫn đầu là một số ngân hàng tư nhân đẩy mạnh cho vay doanh nghiệp bất động sản như ABBank, HDBank, VPBank…
Dù NIM toàn ngành vẫn ở mức đáy 5 năm (3,05%) nhưng quý II/2025 đánh dấu quý đầu tiên không còn suy giảm NIM sau chuỗi sáu quý liên tiếp nhờ nhờ lợi suất cho vay và đầu tư cải thiện mạnh hơn so với tốc độ tăng của chi phí vốn.
Ngoài ra, tỷ lệ cho vay so với huy động (LDR thuần) toàn ngành ở mức rất cao (108,5%), cho thấy các ngân hàng đã tận dụng tối đa nguồn vốn huy động để mở rộng cho vay, giúp NIM tạm ngừng giảm trong quý II.
Chuyên viên phân tích FiinGroup cho rằng, dư địa cải thiện NIM không còn nhiều nếu huy động không theo kịp tăng trưởng tín dụng và có áp lực tăng lãi suất huy động vào cuối năm khi nhu cầu về vốn thường ở mức cao
Bộ đệm dự phòng giảm mạnh từ đỉnh
Trong quý II/2025, chất lượng tài sản của các ngân hàng có sự cải thiện nhẹ. Tỷ lệ tạo mới nợ xấu ở mức rất thấp (0,01%) và nợ tiềm ẩn rủi ro cũng ghi nhận mức giảm mạnh nhất trong nhiều quý (giảm 34.800 tỷ đồng so với quý trước. Tỷ lệ nợ cần chú ý giảm còn 1,2% và nợ xấu (NPL) cũng hạ nhẹ về 2,0%.
Sự cải thiện này phần nào nhờ vào quá trình thu hồi nợ xấu (cả nội và ngoại bảng) được đẩy mạnh, sau khi một số quy định trong Nghị quyết 42 đã được luật hóa cũng như nỗ lực tái cơ cấu nội bộ tại nhiều ngân hàng.
Tuy vậy, FiinGroup cảnh báo tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLCR) tiếp tục ở mức thấp trong quý II (80,3%). Trước đó, thời điểm quý I/2022, LLCR lên tới 149,2% dù tỷ lệ NPL chỉ ở mức 1,4%. Hiện tại, dù NPL ở mức 2,0%, nhưng trích lập dự phòng rủi ro lại giảm mạnh cho thấy khả năng chống chịu rủi ro tín dụng khá thấp.
Năm cao điểm tăng vốn cổ phần của ngành Ngân hàng
Trong bối cảnh lãi mỏng, nợ dày, các ngân hàng đang rầm rộ tăng vốn. FiinGroup cho rằng, năm 2025 có thể là cao điểm tăng vốn cổ phần của ngành Ngân hàng.
Tổng giá trị tăng vốn năm nay của các ngân hàng dự kiến đạt khoảng 33.000 tỷ đồng, vượt các năm trước. Mục tiêu chính là làn sóng tăng vốn này là nhằm củng cố bộ đệm vốn, đáp ứng các yêu cầu an toàn (CAR, LDR, hệ số vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn), trong bối cảnh tín dụng tăng nhanh hơn huy động, LDR toàn ngành đã vượt 108%.
Các ngân hàng quốc doanh như Vietcombank, BIDV chiếm phần lớn quy mô tăng vốn, trong khi nhóm ngân hàng tư nhân như Techcombank, MB, NCB, VietABank… tích cực lên kế hoạch phát hành cổ phiếu hoặc IPO công ty con.
Về đầu tư, những ngân hàng có chiến lược tăng vốn rõ ràng, kiểm soát ROE tốt sau tăng vốn và tận dụng được cơ hội IPO công ty con sẽ có tiềm năng được định giá lại. Đây là nhóm cổ phiếu đáng chú ý trong bối cảnh dòng tiền thị trường đang hướng đến nhóm có nền tảng cơ bản vững chắc
Từ đầu năm đến nay, cổ phiếu ngân hàng tăng trưởng rất mạnh mẽ. Theo FiinGroup, P/B ngành Ngân hàng đã vượt ngưỡng trung bình dài hạn (1,7x) và đạt 1,8x - mức cao nhất kể từ đầu năm 2023, sau hơn 2,5 năm giao dịch dưới ngưỡng này. Dù vậy, mức P/B hiện tại vẫn thấp hơn khoảng 30% so với đỉnh 2,6x thiết lập giữa năm 2021.
Mức tăng 18,3% tính từ đầu năm của P/B là động lực chính thúc đẩy giá cổ phiếu ngành Ngân hàng trong năm 2025 (tăng 38% YTD). Động lực tăng tập trung tại nhóm ngân hàng vừa và nhỏ như SHB, VPBank, ABBank, MB, Eximbank, Techcombank- nơi P/B được đẩy mạnh nhờ dòng tiền cá nhân và lực mua từ khối ngoại.
Ngược lại, một số ngân hàng lớn như Vietcombank và BIDV ghi nhận mức tăng giá hạn chế do suy giảm định giá.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nội tại các ngân hàng cải thiện chậm, dòng tiền vào cổ phiếu Ngân hàng dự kiến sẽ phân hóa và trở nên chọn lọc hơn. Nhóm có P/B thấp hơn mặt bằng chung và còn dư địa cải thiện nội tại sẽ có nhiều khả năng thu hút dòng tiền.
Thùy Liên