Ảnh minh họa.
Tính đến ngày 30/11, cho thấy mặt bằng lãi suất huy động của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân có xu hướng tăng mạnh trong các tháng cuối năm.
Tại nhóm ngân hàng thương mại cổ phần lớn gồm Techcombank, MB, VPBank và ACB, lãi suất huy động bình quân kỳ hạn 1–3 tháng tăng 0,23 điểm phần trăm so với đầu năm, từ 3,30% lên 3,53%/năm. Kỳ hạn 6–9 tháng tăng 0,25 điểm phần trăm, lên mức 4,53%/năm. Kỳ hạn 12 tháng ghi nhận mức tăng 0,12 điểm phần trăm, lên 4,98%/năm.
Trong khi đó, nhóm ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước gồm Vietcombank, BIDV, VietinBank và Agribank tiếp tục giữ ổn định lãi suất. Kỳ hạn 1–3 tháng giảm nhẹ 0,07 điểm phần trăm so với đầu năm, từ 1,95% xuống 1,88%/năm. Kỳ hạn 6–9 tháng duy trì ở mức 3,1%/năm. Kỳ hạn 12 tháng không thay đổi, giữ ở mức 4,9%/năm.
Ở nhóm ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ và vừa, lãi suất bình quân kỳ hạn 1–3 tháng tăng 0,25 điểm phần trăm, từ 3,51% lên 3,76%/năm. Kỳ hạn 6–9 tháng tăng 0,17 điểm phần trăm lên 4,96%/năm. Kỳ hạn 12 tháng ghi nhận mức tăng 0,86 điểm phần trăm, từ 4,4% lên 5,26%/năm.
Xu hướng điều chỉnh lãi suất huy động bắt đầu xuất hiện từ tháng 7 và tăng tốc trong tháng 10. Đến tháng 11/2025, lãi suất huy động tại nhiều ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân được điều chỉnh tăng với biên độ phổ biến 0,2–0,5 điểm phần trăm. Một số trường hợp điều chỉnh tăng tới 0,8 điểm phần trăm, chủ yếu ở các kỳ hạn ngắn.
Đến cuối tháng 11, lãi suất tiết kiệm tại nhiều ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân tăng đáng kể so với đầu năm. Kỳ hạn 1–3 tháng tăng trung bình 0,25 điểm phần trăm; kỳ hạn 6–9 tháng điều chỉnh 0,17–0,25 điểm phần trăm. Đáng chú ý, lãi suất kỳ hạn 12 tháng tại nhóm ngân hàng nhỏ và vừa tăng mạnh nhất, thêm 0,86 điểm phần trăm so với đầu năm.
Theo thống kê, có 20 ngân hàng điều chỉnh tăng lãi suất trong tháng 11, bao gồm VPBank, OCB, Nam A Bank, VIB, Sacombank, Techcombank, HDBank, MB, TPBank, PVcomBank, LPBank, GPBank, Bac A Bank, BaoViet Bank, VCBNeo, KienlongBank, NCB, Vikki Bank, MBV và Bảo Việt Bank.
Trong số này, VPBank tăng đồng loạt tại tất cả các kỳ hạn. Kỳ hạn 3 tháng tăng 0,65 điểm phần trăm, đạt 4,75%/năm – mức trần theo quy định hiện hành. Các kỳ hạn 6, 9 và 12 tháng cùng tăng 0,6 điểm phần trăm.
OCB nâng lãi suất kỳ hạn 18 tháng lên 6%/năm, tăng 0,8 điểm phần trăm. Các kỳ hạn 6–12 tháng tăng 0,45 điểm phần trăm. Kỳ hạn 1 tháng tăng 0,55 điểm phần trăm, lên 4,45%/năm.
Nam A Bank điều chỉnh lãi suất kỳ hạn 1 tháng từ 3,8% lên 4,6%/năm, tăng 0,8 điểm phần trăm. Kỳ hạn 3 tháng tăng 0,75 điểm phần trăm. Kỳ hạn 6 tháng tăng 0,8 điểm phần trăm, lên 5,7%/năm.
VIB nâng lãi suất kỳ hạn 3 tháng lên mức trần 4,75%/năm, tăng 0,75 điểm phần trăm. Kỳ hạn 12 tháng tăng 0,5 điểm phần trăm, lên 5,5%/năm. Kỳ hạn 6 và 9 tháng tăng từ 0,2–0,3 điểm phần trăm.
MB điều chỉnh tăng 0,5 điểm phần trăm ở kỳ hạn 6 và 9 tháng, lên mức 4,9%/năm. Kỳ hạn 1 và 3 tháng tăng 0,4 điểm phần trăm. Techcombank tăng 0,3 điểm phần trăm ở kỳ hạn 3 tháng; các kỳ hạn 6, 9 và 12 tháng tăng thêm 0,2 điểm phần trăm.
HDBank cũng điều chỉnh tăng lãi suất một số kỳ hạn trong tháng 11. Ngoài ra, một số ngân hàng khác như Vikki Bank, MBV ghi nhận mức tăng 0,2–0,3 điểm phần trăm tại các kỳ hạn phổ biến.
Mặc dù nhiều ngân hàng đã điều chỉnh tăng lãi suất, mặt bằng chung vẫn chịu ảnh hưởng bởi sự ổn định từ nhóm ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước.
Tùng Thư