Hôm nay (8-9), Ngân hàng Thế giới (WB) công bố Báo cáo cập nhật kinh tế Việt Nam. Theo quan điểm của chuyên gia WB, Việt Nam đang có dư địa tài khóa dồi dào. Chính vì vậy, trong điều kiện dư địa của chính sách tiền tệ đã bị hạn chế, chính sách tài khóa cần tiếp tục đi đầu về hỗ trợ khả năng chống chịu và tăng trưởng trong dài hạn.
Chuyên gia WB cho rằng có những yếu tố bất định trong thương mại toàn cầu có thể ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Ảnh: VGP
Nền kinh tế chịu tác động từ triển vọng tăng trưởng toàn cầu suy yếu
Phát biểu tại họp báo công bố báo cáo, bà Mariam J. Sherman, Giám đốc WB tại Việt Nam, Campuchia và Lào, nhận định: “Với tỷ lệ nợ công thấp, Việt Nam có dư địa tài khóa dồi dào. Nếu được thực hiện hiệu quả, đầu tư công sẽ vừa giải quyết những bất cập hạ tầng, vừa tạo thêm việc làm".
Song song với đó, cần thúc đẩy cải cách để củng cố dịch vụ thiết yếu, xây dựng nền kinh tế xanh, phát triển vốn con người và đa dạng hóa thương mại.
"Đây chính là những yếu tố then chốt giúp Việt Nam giảm thiểu rủi ro toàn cầu và duy trì tăng trưởng dài hạn”- bà bà Mariam J. Sherman nhấn mạnh.
Giám đốc WB tại Việt Nam, Campuchia và Lào cũng cho rằng đà tăng trưởng hiện tại của nền kinh tế Việt Nam không nên được coi là hiển nhiên, bởi đà tăng này có thể suy yếu khi đối mặt với những khó khăn từ kinh tế toàn cầu và các yếu tố cấu trúc hiện hữu.
Những bất định này đòi hỏi Việt Nam phải duy trì sự cảnh giác và linh hoạt trong hoạch định chính sách, nhằm điều hướng bối cảnh kinh tế đang biến động để bảo đảm và củng cố triển vọng phát triển.
Bà Mariam J. Sherman, Giám đốc WB tại Việt Nam, Campuchia và Lào. Ảnh: NGỌC DIỆP
Sau đà tăng trưởng mạnh mẽ nhờ xuất khẩu tăng mạnh trong nửa đầu năm, kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ tăng chậm lại trong phần còn lại của năm, khi xuất khẩu dần trở về quỹ đạo bình thường. Chuyên gia WB cho rằng những bất định về chính sách thương mại có thể ảnh hưởng tới niềm tin tiêu dùng và doanh nghiệp.
Trong trung hạn, tăng trưởng kinh tế Việt Nam được dự báo giảm còn 6,1% vào năm 2026, trước khi phục hồi lên 6,5% vào năm 2027 nhờ thương mại toàn cầu khởi sắc và lợi thế cạnh tranh trong sản xuất.
Để hỗ trợ tăng trưởng và giảm thiểu rủi ro từ bên ngoài, chuyên gia WB khuyến nghị Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư công, kiểm soát rủi ro trong hệ thống tài chính và thúc đẩy các cải cách cơ cấu.
WB cho rằng các chính sách hỗ trợ tăng trưởng và tự phòng vệ với những bất định bên ngoài cần tập trung theo hướng đẩy mạnh đầu tư công, giảm nhẹ rủi ro trong khu vực tài chính và cải cách cơ cấu.
Chuyên gia WB cũng cho rằng việc thúc đẩy mở rộng đầu tư công chất lượng cao có thể giữ vai trò trụ cột, tạo lập môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và khuyến khích tiêu dùng tư nhân, từ đó giúp Việt Nam xây dựng khả năng chống chịu và hướng tới một tương lai phát triển bền vững.
Xây dựng nguồn nhân lực và hạ tầng công nghệ cao vô cùng quan trọng
Bà Trần Thị Ánh Nguyệt, chuyên gia kinh tế thuộc ban giáo dục của WB tại Việt Nam, cho rằng để hiện thực hóa tham vọng công nghệ cao và mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam không chỉ cần lực lượng sinh viên tốt nghiệp các ngành STEM ngày càng đông đảo, mà quan trọng hơn là phải có đội ngũ chuyên gia nòng cốt đủ khả năng dẫn dắt nghiên cứu, vận hành phòng thí nghiệm và biến ý tưởng thành sản phẩm sẵn sàng thương mại hóa.
Chuyên gia WB phân tích lợi thế lớn nhất của Việt Nam hiện tại là lực lượng nhân công, lao động trẻ được đào tạo tương đối bài bản và có năng lực tốt trong tiếp thu khoa học công nghệ, đặc biệt là tại các doanh nghiệp FDI.
Vị thế Việt Nam trong bản đồ sáng tạo và công nghệ toàn cầu đã có bước tiến đáng kể, Việt Nam đứng thứ 44 trên toàn cầu về đổi mới sáng tạo.
Trong nhóm các nước thu nhập trung bình cao, Việt Nam đứng thứ 2 về chỉ số phát triển con người. Như vậy, chuyên gia WB cho rằng nguồn nhân lực trẻ của Việt Nam có nền tảng tương đối tốt.
Bà Trần Thị Ánh Nguyệt, chuyên gia kinh tế thuộc ban giáo dục của WB tại Việt Nam. Ảnh: NGỌC DIỆP
Cũng theo bà Nguyệt, trong khoảng 10 đến 15 năm vừa rồi, Việt Nam đã thu hút nguồn lực FDI rất lớn từ nước ngoài. Trong ngành điện tử viễn thông, Việt Nam đã thu hút được những doanh nghiệp hàng đầu thế giới. Chính vì vậy, Việt Nam hoàn toàn có cơ hội lan tỏa, tiếp thu, chuyển giao khoa học, công nghệ, tri thức từ nhóm các doanh nghiệp FDI hàng đầu này.
Việt Nam đồng thời đang nằm trong khu vực sôi động nhất toàn cầu về đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học công nghệ.
Tuy nhiên, chuyên gia WB cũng nói đến một số thách thức liên quan đến phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Thách thức thứ nhất liên quan đến tài chính, đầu tư làm sao cho đúng, cho đủ, có trọng tâm, đồng thời có sự cân bằng giữa ngắn hạn và dài hạn.
Đầu tư khoa học công nghệ cần đến tầm nhìn dài hạn. Ví dụ, Malaysia liên tục trong 20 năm đầu tư mỗi năm trên 1% GDP và đến năm ngoái, lần đầu tiên họ đã có cụm khoa học công nghệ Kuala Lumpur lọt vào bảng xếp hạng top 100 toàn cầu về đổi mới sáng tạo hàng đầu thế giới.
Thứ hai, đào tạo sau đại học của Việt Nam còn hạn chế, tỉ lệ giảng viên có bằng tiến sỹ khá thấp so với các nước trong khu vực, tỉ lệ này hiện tại trên 30% trong khi tại Malaysia, tỉ lệ này lên đến 100%. Ngoài ra, vấn đề giữ chân nhân lực trình độ cao cũng vô cùng quan trọng. Việt Nam cần đến lực lượng tinh hoa tri thức dẫn đầu hoạt động đổi mới sáng tạo trong nước.
Thứ ba, liên kết giữa đại học và doanh nghiệp khá lỏng lẻo. Doanh nghiệp chưa nhìn thấy cơ hội từ các nghiên cứu mà các trường đại học có thể mang lại. Các đại học thiếu đi động lực liên kết với doanh nghiệp cả trong đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Từ phân tích trên, WB đưa ra một số khuyến cáo, trong đó, Việt Nam cần phải xây dựng thật tốt hạ tầng đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát triển để giúp các sinh viên, nghiên cứu viên, kỹ sư có điều kiện nghiên cứu thực hành và liên kết với doanh nghiệp. Đồng thời, cần tận dụng tối đa tiềm năng hiện tại đang có với doanh nghiệp FDI để chuyển giao khoa học công nghệ, tri thức.
NGỌC DIỆP