Tuy nhiên, AI tạo sinh lại đặt ra những thách thức đặc biệt đối với ngành công nghiệp sáng tạo, bao gồm âm nhạc. Chúng tôi đã cuộc trao đổi với ông Tào Minh Hùng, Giám đốc Liên đoàn Công nghiệp Ghi âm Quốc tế (IFPI) tại Việt Nam về vấn đề này.
Ông Tào Minh Hùng – Giám đốc IFPI Việt Nam.
PV: IFPI gần đây đang mở rộng hoạt động tại Việt Nam, đặc biệt là việc thành lập văn phòng tại Việt Nam vào năm 2021 và sự ra mắt của Bảng xếp hạng Âm nhạc Việt Nam chính thức (The Official Vietnam Chart) hồi đầu năm 2025. Ông nhận định thế nào về tiềm năng phát triển của thị trường âm nhạc Việt Nam?
Ông Tào Minh Hùng: IFPI là tiếng nói đại diện cho hơn 8.000 hãng ghi âm trên toàn cầu, trong đó có nhiều hãng ghi âm tại Việt Nam. IFPI được biết đến rộng rãi bởi ấn phẩm Báo cáo Âm nhạc Toàn cầu (Global Music Report) cung cấp số liệu thường niên về thị trường toàn cầu, và Bảng xếp hạng âm nhạc Việt Nam chính thức (The Official Vietnam Chart) cung cấp cập nhật hàng tuần về những bài hát được yêu thích nhất tại Việt Nam.
Theo Báo cáo Âm nhạc toàn cầu 2025, Việt Nam là thị trường ghi âm phát triển nhanh nhất thế giới (ngoại trừ các quốc gia siêu lạm phát tiền tệ), với tốc độ tăng trưởng 32,2% trong năm 2024, nhưng quy mô thị trường bình quân đầu người của Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn so với các quốc gia trong khu vực.
Tôi cho rằng, tại một quốc gia có niềm đam mê âm nhạc nhiệt thành và di sản văn hóa phong phú như Việt Nam, rõ ràng ngành công nghiệp ghi âm còn rất nhiều tiềm năng để phát triển, và sẽ là một cấu phần rất quan trọng trong phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam, như Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đề ra là đạt mục tiêu đóng góp 7% vào GDP quốc gia vào năm 2030.
Ấn bản Báo cáo Âm nhạc Toàn cầu 2025 và Bảng xếp hạng âm nhạc Việt Nam chính thức.
PV:Như ông đã biết, AI đang phát triển và mở rộng các lĩnh vực ứng dụng với tốc độ chóng mặt. Ngành âm nhạc đón nhận xu hướng này ra sao?
Ông Tào Minh Hùng: Từ xưa đến nay, ngành âm nhạc luôn tiên phong trong thúc đẩy tiến bộ công nghệ và AI không phải là ngoại lệ. Thực tế, ngành âm nhạc đã ứng dụng AI vào trong quá trình sản xuất từ khá sớm. AI hỗ trợ các nghệ sĩ trong sáng tạo, giúp họ hiểu rõ hơn về thị hiếu khán giả, và tạo ra những trải nghiệm mới cho người hâm mộ.
Quan điểm của ngành âm nhạc luôn nhất quán: AI, nếu được sử dụng một cách có trách nhiệm, hoàn toàn có thể đem lại những thể nghiệm sáng tạo độc đáo và hoàn thiện tính nghệ thuật của con người. Tuy nhiên, ngành công nghiệp sáng tạo nói chung và ngành âm nhạc nói riêng cũng đang phải đối mặt với những thách thức to lớn mà hoạt động phát triển AI tạo ra.
PV: Ông có thể chia sẻ rõ hơn về những thách thức mà hoạt động phát triển AI tạo ra đối với ngành âm nhạc?
Ông Tào Minh Hùng: Thách thức lớn nhất liên quan đến vấn đề bản quyền vốn là cốt lõi của toàn bộ ngành âm nhạc. Bên cạnh những nhà phát triển AI đã thiết lập các mối quan hệ hợp tác với các hãng ghi âm hoặc xin cấp phép từ các hãng ghi âm để tiếp cận các nội dung có bản quyền, có rất nhiều công ty sử dụng các nội dung có bản quyền để huấn luyện AI mà không xin phép hay trả tiền cho chủ thể quyền.
Các công ty này không chỉ làm lợi dựa trên thành quả đầu tư, lao động và sáng tạo của các nhà sản xuất và nghệ sĩ, mà đáng nói hơn là đầu ra của quá trình phát triển AI sẽ quay trở lại thị trường cạnh tranh với chính các nội dung có bản quyền đã bị sử dụng (một cách miễn phí).
PV: Hiện tại, Việt Nam cũng đang xây dựng Luật Trí tuệ nhân tạo nhằm tạo hành lang pháp lý toàn diện cho phát triển AI tại Việt Nam. Ông có nhận định gì về dự án này và tác động của nó tới ngành âm nhạc Việt Nam?
Ông Tào Minh Hùng: Việc ban hành Luật AI đúng là cần thiết để tạo hành lang pháp lý cho phát triển AI tại Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh Luật AI, thì tác động của hoạt động phát triển AI tới ngành âm nhạc Việt Nam còn bị điều chỉnh bởi một số luật khác, trong đó có Luật Sở hữu trí tuệ. Hiện nay, dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi đang được Chính phủ trình Quốc hội xem xét và trong dự thảo này có đưa ra ngoại lệ về bản quyền đối với khai thác văn bản và dữ liệu cho mục đích phát triển AI. Tôi cho rằng cần xem xét lại quy định này.
Các nhà phát triển AI hoàn toàn có thể tiếp cận nội dung đó thông qua đàm phán xin cấp phép – tương tự bất kỳ hình thức khai thác bản quyền nào khác. Tuy nhiên, việc áp dụng ngoại lệ như trong dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi sẽ cản trở nỗ lực của các hãng ghi âm trong việc phát triển một thị trường cấp phép bản quyền lành mạnh phục vụ huấn luyện AI, và khiến cho giá trị bản quyền suy giảm nghiêm trọng.
Việc phát triển AI dựa trên đầu vào (input) là các nội dung có bản quyền như văn học, phim ảnh hay âm nhạc không nhằm tạo ra những sản phẩm đầu ra (output) giải quyết những thứ cấp thiết của xã hội – càng không có lý do chính đáng để ngành sáng tạo phải cung cấp miễn phí các nội dung có bản quyền cho các nhà phát triển AI. Hơn nữa, do đầu ra của quá trình phát triển AI sẽ quay trở lại thị trường cạnh tranh với chính các nội dung có bản quyền, vô hình trung ngoại lệ nói trên đang buộc ngành sáng tạo phải hy sinh cho thứ sẽ là đối thủ cạnh tranh của chính họ.
Vì vậy, ngoại lệ này cần được cân nhắc và nghiên cứu một cách cẩn trọng để bảo đảm một tương lai khởi sắc cho các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo của Việt Nam. Thực tế, các quốc gia hàng đầu về AI như Trung Quốc và Hoa Kỳ cũng không đưa ra ngoại lệ trên. Chính phủ Australia mới đây cũng đã xác nhận sẽ ủng hộ ngành công nghiệp sáng tạo và không đưa ngoại lệ đó vào trong Luật Bản quyền của mình.
PV