Toàn cảnh Tọa đàm "Thực trạng và giải pháp khôi phục sự phát triển đàn bò sữa" - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Hôm nay (23/9), Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Hội Chăn nuôi Việt Nam và Hiệp hội Chăn nuôi Gia súc lớn Việt Nam tổ chức Tọa đàm "Thực trạng và giải pháp khôi phục sự phát triển đàn bò sữa".
Hiện nay, người chăn nuôi bò sữa đang phải đối mặt với muôn vàn khó khăn như chi phí sản xuất tăng cao, giá bán sữa nguyên liệu bấp bênh, đầu ra thiếu ổn định. Không ít bà con nông dân không thể cầm cự, dẫn tới phá bỏ đàn bò đã từng dày công gây dựng, bỏ sang làm nghề khác. Tất cả đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến tương lai phát triển lâu dài của ngành bò sữa trong nước.
Theo ông Lê Việt Hải, Phó Chi cục Chăn nuôi và Thú y TPHCM, chăn nuôi bò sữa là ngành đòi hỏi đầu tư lớn, tính chuyên nghiệp cao. Tuy nhiên, hiện nay diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm, đất trồng cỏ hạn chế, quy mô chăn nuôi nông hộ nhỏ, chi phí sản xuất cao do nhiều chi phí trung gian, trong khi việc tiêu thụ sản phẩm chưa ổn định, gây nhiều khó khăn cho người chăn nuôi.
Những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa nhanh làm hạn chế quỹ đất nông nghiệp phát triển chăn nuôi bò sữa. Nhiều vùng đất sản xuất xen kẽ với khu dân cư, chưa xác định được vùng sản xuất ổn định. Trong khi chi phí nguyên liệu cao, hiệu quả đầu tư cơ giới hóa chưa phát huy tối đa. Giá sữa không ổn định khiến người chăn nuôi ngần ngại đầu tư vào cơ giới hóa và công nghệ cao.
"Sau khi Việt Nam gia nhập CPTPP và EVFTA, ngành bò sữa đối mặt cả cơ hội lẫn thách thức. Để cạnh tranh hiệu quả, chăn nuôi bò sữa TPHCM cần đổi mới mạnh mẽ về tổ chức sản xuất, quy mô, công nghệ và thị trường tiêu thụ", ông Hải nói.
Hiện nay, phương thức chăn nuôi vẫn mang tính truyền thống, tận dụng nguồn thức ăn sẵn, không ổn định, mất cân bằng dinh dưỡng, dù người chăn nuôi đã được tập huấn kỹ thuật. Nhiều hộ chỉ tập trung khai thác sữa và bán con giống, chưa chú trọng quản lý đàn giống, dinh dưỡng theo chế độ phối trộn hoàn chỉnh (PMR, TMR), cũng như điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng tại nông hộ, dẫn tới tình trạng stress nhiệt ở bò.
Giá nguyên liệu đầu vào tăng cao trong khi giá thu mua sữa tươi ổn định hoặc tăng rất ít (Vinamilk tăng 0,1%, Friesland Campina giảm 0,1%), khiến nhiều hộ chăn nuôi nhỏ lẻ không còn lãi, dẫn tới giảm đàn bò sữa nhanh chóng.
"Nhất là vẫn chưa có các quy định về điều kiện kinh doanh và chế biến sữa phù hợp, cũng như cơ chế khuyến khích phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Điều này khiến việc nhập khẩu sữa bột hoàn nguyên trở nên thuận lợi hơn so với chế biến sữa tươi, làm doanh nghiệp không mặn mà mua sữa của nông dân", ông Hải cho hay.
Còn theo Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi), khó khăn trong phát triển đàn bò sữa xuất phát từ nhiều yếu tố. Đơn cử, nhiều hộ chưa tiếp cận được tinh bò sữa cao sản, chất lượng đàn giảm qua các thế hệ; diện tích đất trồng cỏ hạn chế, phải phụ thuộc vào thức ăn tinh mua ngoài với chi phí cao; thiếu vốn và tín dụng ưu đãi để cải thiện chuồng trại, máy móc vắt sữa, bảo quản, công nghệ và con giống.
Thị trường sữa tiêu thụ phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp; giá thu mua biến động, thiếu cơ chế bình ổn, khiến nông hộ dễ bị thiệt hại. Nhiều hộ chưa được tập huấn đầy đủ, dẫn tới rủi ro dịch bệnh và chất lượng sữa chưa đồng đều. Biến đổi khí hậu, nắng nóng gay gắt, thiếu nước và dịch bệnh mới nổi cũng làm tăng rủi ro trong chăn nuôi.
Liên kết bền vững tạo đà phát triển chăn nuôi bò sữa
Để gỡ khó cho ngành chăn nuôi bò sữa Việt Nam, TS.Nguyễn Xuân Dương - Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam cho rằng, cần tập trung xây dựng mối liên kết bền vững giữa nông dân nuôi bò và doanh nghiệp thu mua, chế biến sữa. Thay vì sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, ngành chăn nuôi cần hướng tới chuỗi liên kết khép kín, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò "đầu tàu" về công nghệ, vốn và thị trường; nông dân là lực lượng trực tiếp sản xuất, đảm bảo sản lượng và chất lượng sữa nguyên liệu.
TS. Nguyễn Xuân Dương cũng đưa ra quan điểm cần quy định bắt buộc các cơ sở sản xuất, kinh doanh sữa phải có vùng hoặc gắn với vùng nguyên liệu sữa nguyên liệu trong nước, hoặc phải sử dụng tối thiểu bao nhiêu % nguyên liệu sữa tươi trong nước như các nước trên thế giới đã áp dụng (mức quy định có thể là từ 5-10%/tổng số nguyên liệu sử dụng).
Cùng với đó, doanh nghiệp cần ký hợp đồng thu mua dài hạn, cam kết về số lượng, chất lượng và giá cả minh bạch, tạo niềm tin để nông dân yên tâm đầu tư. Đồng thời, hỗ trợ kỹ thuật, giống, thức ăn và công nghệ bảo quản nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sữa tươi.
Về phía nông dân, thay vì chăn nuôi tự phát dẫn đến chất lượng sữa không ổn định và chi phí cao, cần tham gia các tổ hợp tác, hợp tác xã, áp dụng quy trình chăn nuôi tiên tiến, đáp ứng tiêu chuẩn doanh nghiệp và thị trường yêu cầu. Một mối quan hệ "cùng thắng", dựa trên sự tin tưởng và hợp tác, sẽ đảm bảo sự bền vững lâu dài cho ngành.
Bên cạnh nỗ lực của nông dân và doanh nghiệp, Nhà nước và chính quyền địa phương cần đồng hành bằng các chính sách phù hợp. Hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật cần được hoàn thiện, minh bạch, giúp người tiêu dùng phân biệt rõ sữa tươi và sữa hoàn nguyên, bảo vệ quyền lợi người chăn nuôi bò sữa.
Đỗ Hương