Gia tăng tỉ lệ nội địa hóa đối với hàng dệt may
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), năm 2025, ngành dệt may Việt Nam tiếp tục là một trong những động lực tăng trưởng xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế.
Trong 8 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 30,7 tỷ USD; nếu duy trì mức 4 tỷ USD/tháng, toàn ngành có thể cán đích 48 tỷ USD vào cuối năm 2025.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, ngành dệt may của Việt Nam cũng đang phải đối diện với áp lực kép từ biến động về chính trị và những yêu cầu khắt khe về phát triển xanh và bền vững.
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà - Phó Trưởng khoa Luật (Trường Đại học Ngoại thương). Ảnh: Nguyễn Ngọc.
Chia sẻ với phóng viên Báo Công Thương, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà - Phó Trưởng khoa Luật (Trường Đại học Ngoại thương) cho biết, từ những số liệu gần đây được công bố thì một trong những vấn đề khó khăn mà doanh nghiệp phải đối mặt chính là câu chuyện về tỉ lệ nội địa hóa của Việt Nam trong lĩnh vực dệt may chỉ khoảng từ 40 đến 45%.
“Chúng ta đã phải nhập khẩu 90% lượng bông, do đó, câu chuyện về gia tăng tỉ lệ nội địa và gia tăng vị thế của các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam trong các chuỗi giá trị và toàn cầu là một khía cạnh cần phải quan tâm tới”, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà nhấn mạnh.
Cũng theo chuyên gia này, câu chuyện về vấn đề về xanh hóa chuỗi cung ứng dệt may của Việt Nam theo những yêu cầu mới của EU ở trong chỉ thị thẩm định tính bền vững của chuỗi cung ứng, hay theo chiến lược về dệt may tuần hoàn của EU; và gần đây nhất là một chỉ thị khung liên quan đến vấn đề về giảm rác thải của EU đều đặt ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
“Chúng ta phải thay đổi về mặt công nghệ, đầu tư về nguồn nhân lực để tăng cường hiểu biết và tích hợp những chiến lược về xanh hóa chuỗi cung ứng này trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp”, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà nói.
Để thực hiện, tham gia tích cực và nâng cao vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng xanh của hàng dệt may, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà cho rằng, chúng ta cần phải làm rất nhiều việc nhất là từ góc độ của doanh nghiệp.
Theo đó, doanh nghiệp cần phải lưu ý đến câu chuyện nâng cao nhận thức. Bởi, vấn đề này liên quan đến tuân thủ các tiêu chuẩn xanh. Đây là một khía cạnh rất quan trọng.
“Khi chúng ta nhận thức đúng, tích hợp những nhận thức đó và triển khai đến các bộ phận khác nhau trong doanh nghiệp, người lao động, các bộ phận kinh doanh và tiếp thị thì nó sẽ tạo ra một nguồn lực thống nhất, sự hiểu biết thống nhất trong doanh nghiệp”, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà cho hay.
Ngành dệt may Việt Nam đối diện với nhiều khó khăn về tỉ lệ nội địa hóa và vấn đề xanh hóa chuỗi cung ứng. Ảnh: Nguyễn Ngọc.
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà cũng cho rằng, chuyển đổi số là xu thế. Bởi những yêu cầu hiện nay để xanh hóa chuỗi cung ứng thì cần yêu cầu về truy xuất nguồn gốc rõ ràng. Ông khuyến nghị, để đáp ứng yêu cầu Hộ chiếu kỹ thuật số sản phẩm (DPP) của EU, doanh nghiệp Việt Nam buộc phải đầu tư công nghệ, nếu không sẽ rất khó tham gia thị trường này.
Cùng với đó, tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp trong chuỗi nhằm nâng cao sức mạnh tổng thể. Quan trọng hơn là phải đẩy mạnh liên kết nội địa, gia tăng tỉ lệ nội địa hóa và giá trị của dệt may Việt Nam trong chuỗi cung ứng.
"Để đáp ứng tiêu chuẩn dệt may bền vững của EU, Hoa Kỳ, doanh nghiệp cần quan tâm toàn diện, từ nâng cao kỹ thuật, công nghệ đến đảm bảo pháp lý và quản trị rủi ro," PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà nói
Hợp lực giữa chính sách, tài chính và doanh nghiệp
Bà Phạm Thị Hồng Phượng - cố vấn cao cấp Trung tâm Đổi mới Sáng tạo, Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh cho rằng, quá trình xanh hóa chỉ khả thi khi có sự hợp lực giữa chính sách, tài chính và doanh nghiệp.
Theo bà Phượng, chi phí đầu tư công nghệ xanh ban đầu cao và thiếu hụt nhân lực có chuyên môn là hai rào cản lớn nhất khiến nhiều doanh nghiệp Việt chưa thể chuyển đổi toàn diện. Trong khi phần lớn doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện mới dừng ở mức ‘xanh hóa sản xuất’, thì thế giới đã tiến tới chuỗi cung ứng tuần hoàn.
Để tháo gỡ khó khăn, bà Phạm Thị Hồng Phượng kiến nghị Chính phủ cần đóng vai trò dẫn dắt, trước hết bằng việc hoàn thiện khung pháp lý, ban hành ưu đãi thuế rõ ràng, mở rộng nguồn tín dụng xanh thông qua Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) hoặc các quỹ khí hậu quốc tế. Những nguồn vốn này sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn vay ưu đãi, đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng, xử lý chất thải và giảm phát thải carbon.
Ở chiều ngược lại, doanh nghiệp cần chủ động gắn chiến lược xanh hóa với cam kết Net Zero 2050 của quốc gia, tăng cường hợp tác công - tư (PPP) chia sẻ rủi ro và nguồn lực.
Nhấn mạnh vai trò của đào tạo nhân lực xanh và đầu tư cho R&D, nhằm hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo phục vụ kinh tế tuần hoàn, bà Phạm Thị Hồng Phượng cũng chỉ ra, xanh hóa không thể là nỗ lực đơn lẻ của từng doanh nghiệp. Đó phải là một chiến lược hợp lực, nơi chính sách, tài chính, công nghệ và con người cùng hướng đến một mục tiêu chung là phát triển bền vững cho toàn ngành.
Theo bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), nhu cầu sản phẩm may mặc bền vững ở các thị trường FTA đang tăng mạnh.Để khai thác tối đa FTA và nâng cao tỷ lệ sử dụng chứng nhận xuất xứ, Cục đang triển khai đồng bộ các giải pháp, tập trung vào 3 trọng tâm: Hoàn thiện cơ chế chính sách, phân quyền phân cấp, và nâng cao năng lực thực thi về xuất xứ hàng hóa.
Nguyễn Ngọc