Ngành điện, than sẽ chiếm 90% giao dịch thị trường tín chỉ carbon

Ngành điện, than sẽ chiếm 90% giao dịch thị trường tín chỉ carbon
4 giờ trướcBài gốc
Ngày 23/9 tại Hà Nội, Chương trình Đối tác chuyển đổi năng lượng Đông Nam Á (ETP) phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu - Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo tổng kết hỗ trợ kỹ thuật “Đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon tại Việt Nam”.
Hỗ trợ Kỹ thuật được triển khai từ tháng 9/2024 đến tháng 9/2025, là một hợp phần quan trọng trong khuôn khổ Chương trình ETP, nhằm đồng hành cùng Cục Biến đổi khí hậu trong quá trình xây dựng và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam. Mục tiêu cốt lõi của hoạt động là phân tích, xây dựng các mô hình đánh giá tác động đối với các phương án quản lý tín chỉ carbon và hạn ngạch phát thải khí nhà kính. Trên cơ sở đó, hỗ trợ kỹ thuật cung cấp các thông tin đầu vào quan trọng, phục vụ việc thiết kế hệ thống quản lý minh bạch, hiệu quả, hướng tới vận hành thị trường carbon trong nước theo chuẩn mực quốc tế.
Thị trường carbon: Giải pháp đạt phát thải ròng bằng không
Phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Tuấn Quang - Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu - nhấn mạnh: Xu thế toàn cầu đang chứng minh Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS) cùng các công cụ định giá carbon, như thuế carbon, đã trở thành chính sách phổ biến, hiệu quả và ngày càng mạnh mẽ trong nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính.
Ông Nguyễn Tuấn Quang - Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, số lượng hệ thống ETS trên toàn cầu đã tăng từ 25 (năm 2020) lên 37 (năm 2025), với tỷ lệ kiểm soát phát thải từ 8% lên tới 23%. Doanh thu từ các thị trường này cũng gia tăng đáng kể, từ 25 tỷ USD năm 2020 lên hơn 69 tỷ USD vào năm 2024.
Những con số ấy khẳng định không chỉ hiệu quả của chính sách trong việc cắt giảm phát thải, mà còn cho thấy vai trò của thị trường carbon trong tạo nguồn lực tài chính bền vững cho các quốc gia”, ông Quang nhấn mạnh và khẳng định, việc xây dựng thị trường carbon được xem là công cụ quan trọng để Việt Nam hiện thực hóa cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường được giao chủ trì xây dựng nghị định về trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải và nghị định về hấp thụ, lưu giữ carbon của rừng. Song song, Bộ Tài chính đã hoàn thiện dự thảo nghị định về sàn giao dịch carbon trong nước, hiện các cơ quan này đang phối hợp cùng các bộ, ngành để sớm trình Chính phủ ban hành.
Ông Nguyễn Tuấn Quang cũng ghi nhận sự hỗ trợ kỹ thuật từ Chương trình ETP và các tổ chức quốc tế, đã giúp Việt Nam phân tích, xây dựng mô hình, đánh giá tác động chính sách. “Đây là nền tảng quan trọng để thị trường carbon Việt Nam không chỉ vận hành hiệu quả trong giai đoạn thí điểm mà còn hội nhập vững chắc với xu thế toàn cầu”, ông khẳng định.
Các phương án quản lý ETS và kết quả đánh giá tác động
Báo cáo tại hội thảo, bà Nguyễn Hồng Loan - Trưởng nhóm, chuyên gia về chính sách khí hậu (GreenCIC) - cho biết: Nghiên cứu đã xác định các phương án quản lý ETS trong giai đoạn thí điểm, bao gồm phương án xác định phạm vi, phương án thiết lập tổng hạn ngạch và phân bổ hạn ngạch đối với từng cơ sở và phương án sử dụng tín chỉ carbon để bù trừ.
Bà Nguyễn Hồng Loan trình bày báo cáo hỗ trợ kỹ thuật.
Dựa trên các phương án này, nghiên cứu đã xây dựng và đánh giá 9 kịch bản cho giai đoạn thí điểm của ETS tại Việt Nam, theo các phương án gắn với các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam.
Đối với mỗi kịch bản, nghiên cứu thực hiện đánh giá tác động để các doanh nghiệp, các ngành và nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam đạt được các mục tiêu này trong trường hợp không có ETS và trường hợp có ETS với tỷ lệ sử dụng tín chỉ bù trừ tối đa 10%, 20% và 30%. Khi không có ETS, doanh nghiệp bắt buộc phải đầu tư đầy đủ các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính để đạt được mục tiêu NDC, trong khi có thị trường ETS, doanh nghiệp sẽ được lựa chọn phương án tối ưu: Mua hạn ngạch, tín chỉ hoặc tự đầu tư vào các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính”- bà Loan thông tin.
Phân tích cho thấy, ETS đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ gánh nặng giảm phát thải khí nhà kính, giúp doanh nghiệp linh hoạt hơn trong việc lựa chọn giữa đầu tư công nghệ và mua tài chính, đặc biệt là đối với lĩnh vực nhiệt điện. Trong kịch bản ETS gắn với mục tiêu NDC không điều kiện, tổng chi phí tuân thủ giảm mạnh, từ 420,5 triệu USD (trong trường hợp không có ETS) xuống còn 68,9 triệu USD (trong trường hợp có ETS với tỷ lệ bù trừ 30%). Với kịch bản NDC có điều kiện, mức chi phí cũng giảm từ 1,297 tỷ USD xuống 879,8 triệu USD.
ETS có khả năng giảm thiểu tổn thất GDP, tiêu dùng và hạn chế áp lực lạm phát. Trong kịch bản theo mục tiêu NDC có điều kiện, ETS với tỷ lệ bù trừ 30% giúp giảm tác động tiêu cực thêm khoảng 0,0124 điểm % GDP, cải thiện tác động tiêu cực đến tiêu dùng thêm 0,0186%, và giảm mức tăng giá tiêu dùng 0,0049% so với trường hợp không có ETS trong giai đoạn 2025-2030.
Theo bà Nguyễn Hồng Loan, nhu cầu tín chỉ carbon của thị trường với tỷ lệ bù trừ tối đa 30% dự kiến là 56-62 triệu tín chỉ/năm, tuy nhiên khả năng hấp thụ tối đa của thị trường chỉ ở mức 15,8-16,3 triệu tín chỉ/năm.
Bà nhấn mạnh: “Trong mọi kịch bản, ngành nhiệt điện than vẫn là ngành tham gia mua tín chỉ chủ yếu, chiếm 85-90% tổng giao dịch tín chỉ trên thị trường, tương đương 13-14,6 triệu tín chỉ”.
Nhìn chung, các kịch bản phù hợp với NDC có điều kiện và JETP mang lại kết quả tốt nhất về môi trường và xã hội nhưng đi kèm với chi phí tuân thủ cao hơn, trong khi các kịch bản dựa trên NDC không điều kiện lại hiệu quả hơn về tính khả thi kinh tế.
“Điều này cho thấy, việc lựa chọn phương án quản lý ETS cần đặt trong bối cảnh cân bằng giữa mục tiêu giảm phát thải tham vọng, đảm bảo công bằng xã hội và duy trì tính khả thi kinh tế, nhằm hỗ trợ Việt Nam đạt được các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính một cách bền vững”- bà Loan khẳng định.
Quản lý giao dịch tín chỉ carbon quốc tế: Lợi ích và thách thức
Nghiên cứu đã xây dựng hai kịch bản quản lý giao dịch tín chỉ carbon quốc tế, dựa trên danh mục biện pháp giảm phát thải và tỷ lệ giữ lại kết quả để bảo đảm mục tiêu NDC quốc gia.
Toàn cảnh hội thảo tổng kết.
Ở kịch bản S20 (20 biện pháp), doanh thu dao động từ 59-522 triệu USD/năm, đóng góp 1,2-10,4 triệu USD vào ngân sách, tăng trưởng GDP từ 0,013-0,082%. Kịch bản S56 (56 biện pháp) mở rộng hơn, mang lại doanh thu 468 triệu đến 1,9 tỷ USD/năm, GDP tăng 0,068-0,32%.
Theo đó, các ngành công nghiệp, năng lượng, xử lý chất thải hưởng lợi nhiều nhất, trong khi nông nghiệp và lâm nghiệp đối mặt rủi ro tài chính cao hơn.
Tuy nhiên, tỷ lệ giao dịch 70% trong S56 có thể dẫn tới nguy cơ “bán quá mức” và ảnh hưởng tới mục tiêu NDC.
Do đó, nghiên cứu đề xuất lộ trình quản lý tích hợp giữa ETS và giao dịch quốc tế theo ba giai đoạn.
Thứ nhất, trong ngắn hạn (giai đoạn 2025–2028): Doanh nghiệp được bù trừ tối đa 30%, Việt Nam giữ lại 50% tín chỉ giao dịch quốc tế để bảo vệ mục tiêu NDC.
Thứ hai, trong trung hạn (sau năm 2028): Giới hạn bù trừ giảm xuống 20%, siết chặt quy định khi hệ thống đo đạc - thẩm định hoàn thiện.
Thứ ba, trong dài hạn (sau năm 2030): Thị trường carbon tương thích với mục tiêu khí hậu tham vọng, bù trừ còn 10%, tỷ lệ giữ lại tín chỉ giảm xuống 30%.
Kết quả cho thấy, mở rộng giao dịch theo kịch bản S56 đem lại lợi ích kinh tế vượt trội, song cần quản lý chặt chẽ để bảo đảm cân bằng giữa phát triển thị trường và thực hiện cam kết giảm phát thải.
Tại hội thảo, các đại biểu tập trung vào hai nhóm nội dung chính. Thứ nhất, trình bày và thảo luận kết quả nghiên cứu, đánh giá tác động của những phương án quản lý trong Hệ thống giao dịch hạn ngạch phát thải KNK (ETS), cũng như khả năng tham gia giao dịch quốc tế tín chỉ các-bon gắn với mục tiêu giảm nhẹ phát thải của Việt Nam. Thứ hai, trao đổi về định hướng và các bước tiếp theo sau khi Hỗ trợ Kỹ thuật kết thúc, trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn xây dựng cơ chế quản lý ETS.
Thu Hường
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/nganh-dien-than-se-chiem-90-giao-dich-thi-truong-tin-chi-carbon-421975.html