Ngành lúa gạo Việt Nam chủ động thích ứng khi cung vượt cầu

Ngành lúa gạo Việt Nam chủ động thích ứng khi cung vượt cầu
5 giờ trướcBài gốc
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam có thời điểm đã chạm mức cao nhất kể từ đầu năm. (Ảnh: Công Mạo/TTXVN)
Xuất khẩu gạo 9 tháng năm 2025 duy trì về lượng nhưng giá trị giảm mạnh do giá trung bình xuất khẩu giảm.
Trong bối cảnh Philippines, thị trường lớn nhất của gạo Việt Nam gia hạn lệnh cấm nhập khẩu gạo đến hết năm 2025, chuyên gia và doanh nghiệp nhận định hoạt động xuất khẩu gạo Việt sẽ còn nhiều khó khăn, cần sự linh hoạt của doanh nghiệp và chính sách hỗ trợ kịp thời của Nhà nước.
Thị trường xuất khẩu nhiều biến động
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong tháng 9/2025, Việt Nam xuất khẩu được 600.000 tấn gạo, thu về 288 triệu USD. Lũy kế 9 tháng xuất khẩu gạo đã đạt 7 triệu tấn, kim ngạch đạt 3,55 tỷ USD; so với cùng kỳ năm 2024, lượng xuất khẩu tăng 0,1% nhưng giá trị giảm tới 18,5%.
Ở chiều ngược lại, tính đến hết tháng Việt Nam cũng chi 1,5 tỷ USD để nhập khẩu gạo, trong khi xuất khẩu giảm khiến thặng dư thương mại ngành gạo chỉ còn hơn 2 tỷ USD, giảm 38,7% so với cùng kỳ năm 2024.
Sau khi Philippines tiếp tục gia hạn lệnh cấm nhập khẩu gạo đến hết năm 2025, doanh nghiệp xuất khẩu gạo lo ngại khả năng tiêu thụ lúa gạo cho các vụ tiếp theo.
Ông Lê Phát Long, Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phát Tài (Đồng Tháp) cho biết, thị trường xuất khẩu lớn nhất là Philippines ban đầu có kế hoạch dừng nhập khẩu trong 60 ngày, nhưng hiện đã gia hạn đến hết năm 2025.
Điều này đồng nghĩa những doanh nghiệp đang xuất khẩu vào thị trường Philippines hoàn toàn rơi vào thế bị động. Tương tự thị trường Indonesia cũng dừng nhập khẩu gạo từ đầu năm 2025 tới nay để tập trung tiêu thụ gạo nội địa và hàng tồn kho đã nhập vào trước đó.
Công nhân vận chuyển gạo tại nhà kho ở Jalandhar (Ấn Độ). (Ảnh: ANI/TTXVN)
Theo ông Lê Phát Long, tình hình khó khăn của ngành gạo hiện nay không chỉ xảy ra với riêng Việt Nam mà ngay cả Thái Lan, Ấn Độ, Myanmar đều gặp phải.
Thời điểm này, ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, lượng lúa gạo trong nhà dân không còn nhiều bởi đã kết thúc vụ hè thu, diện tích lúa vụ mùa không đáng kể. Nhiều nông dân tranh thủ mùa nước nổi để thau rửa đồng ruộng. Tuy nhiên, từ cuối năm 2025 đến đầu 2026, khi bước vào vụ đông xuân, vụ có sản lượng lớn nhất bài toán thu mua và tiêu thụ sẽ trở nên cấp bách.
Đáng lo ngại nhất là chương trình thu mua lúa gạo năm 2026 ở các thị trường Philippines, Indonesia vẫn chưa rõ ràng, do đó xuất khẩu gạo những vụ sau rất khó dự báo. Ngoài hai thị trường lớn này, doanh nghiệp đã tiếp cận một số khách hàng khu vực khác nhưng quy mô tiêu thụ gạo đều nhỏ lẻ, khó bù đắp được thị phần.
Cùng góc nhìn, ông Phan Văn Có - Giám đốc Marketing Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vrice nêu bối cảnh, thị trường gạo thế giới đang có sự đảo chiều; các thị trường tiêu thụ gạo lớn như Philippines, Indonesia, Malaysia đều tập trung cơ cấu lại ngành sản xuất lúa gạo trong nước. Theo đó, họ hỗ trợ nông dân sản xuất lúa gạo nhằm nâng cao sản lượng, giảm dần sự phụ thuộc vào gạo nhập khẩu từ nước ngoài.
Trong khi đó, các quốc gia xuất khẩu gạo như Ấn Độ, Thái Lan, Campuchia đang có lượng gạo lớn cần bán ra. Nguồn cung dồi dào, trong khi nhu cầu mua vào thấp khiến hoạt động xuất khẩu gạo rơi vào trạng thái trầm lắng.
Giá gạo trắng trên thị trường thế giới liên tục giảm, gạo thơm cũng không tránh khỏi xu hướng này.
Các loại gạo Việt Nam được giới thiệu tại hội thảo kết nối giao thương ở Hong Kong. (Ảnh: Mạc Luyện/TTXVN)
Theo ông Phan Văn Có, Vrice chủ yếu xuất khẩu gạo hạt dài, gạo thơm Jasmine nhưng cũng phải đàm phán liên tục vì áp lực cạnh tranh ngày càng tăng; khách hàng có nhiều lựa chọn nguồn cung nên ép giá.
Trong 9 tháng đầu của năm 2025, doanh nghiệp dù cố gắng duy trì được sản lượng xuất khẩu tương đương nhưng giá trị thu về đã giảm đến 15-20% so với cùng kỳ 2024.
Những tháng tới, một số khách hàng khu vực châu Á, Trung Đông vẫn có nhu cầu nhập khẩu gạo của Việt Nam nhưng chỉ ưu tiên giá rẻ, nếu không đàm phán được họ sẵn sàng tìm nhà cung cấp thay thế.
Hiện nay, cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam ở phân khúc gạo thơm là Thái Lan; trong khi đó Ấn Độ có lợi thế tuyệt đối về xuất khẩu gạo trắng bởi sản lượng lớn và giá rẻ.
Doanh nghiệp đã thu mua gạo từ vụ Đông Xuân và Hè Thu lúc giá cao, chưa xuất hết đang đối diện nguy cơ lỗ. Thêm vào đó, thuế giá trị gia tăng 5% cũng khiến nhiều doanh nghiệp không mặn mà với việc xuất khẩu. Đây không chỉ là vấn đề của doanh nghiệp mà sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới nông dân thời gian tới.
Nếu tình hình xuất khẩu không được cải thiện, doanh nghiệp còn tồn kho gạo vụ mùa cũ sẽ không thể thu mua gạo mới của nông dân. Với sản lượng gạo đông xuân lớn, khả năng xảy ra tình trạng dội hàng là khó tránh khỏi - ông Phan Văn Có quan ngại.
Cần đa dạng hóa kênh tiêu thụ
Đưa nguyên liệu gạo vào chế biến phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu ở nhà máy gạo Hạnh Phúc, xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)
Để ứng phó, các doanh nghiệp đề nghị Chính phủ sớm triển khai chương trình thu mua tạm trữ khi vào vụ thu hoạch rộ, nhằm giữ ổn định giá lúa gạo trong nước và bảo vệ lợi ích của nông dân.
Việc giảm thuế VAT đối với hoạt động xuất khẩu từ mức 5% xuống 0-2% và đẩy nhanh hoàn thuế cũng là giải pháp quan trọng nhằm hỗ trợ dòng tiền cho doanh nghiệp, giúp họ chủ động hơn trong kế hoạch thu mua và điều tiết thị trường.
Bên cạnh giải pháp ngắn hạn, doanh nghiệp cũng mong muốn được hỗ trợ thông qua việc đầu tư xây dựng hệ thống kho sấy, bảo quản và logistics chuyên dụng ở vựa lúa lớn như Đồng bằng sông Cửu Long.
Điều này giúp nông dân, doanh nghiệp nâng cao năng lực chế biến, tạm trữ lúa gạo; giảm bớt áp lực phải tiêu thụ nhanh ngay khi thu hoạch và thị trường bất lợi.
Với kinh nghiệm nhiều năm quan sát thị trường lúa gạo, bà Phan Mai Hương, đồng sáng lập trang thông tin thị trường lúa gạo quốc tế SSRicenews phân tích, cuối tháng 8, khi Philippines lần đầu ban hành lệnh cấm nhập khẩu gạo 60 ngày, các doanh nghiệp khá bình tĩnh bởi lệnh cấm không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Thời điểm đó, Philippines không cấm nhập khẩu gạo thơm, vốn là lợi thế của Việt Nam. Hơn nữa, trong nước vụ hè thu đã cơ bản hoàn thành; vụ thu đông chưa tới kỳ thu hoạch nên sản lượng lúa gạo hàng hóa không đáng kể.
Tuy nhiên, đến đầu tháng 10, Philippines không chỉ tiếp tục gia hạn lệnh cấm nhập khẩu đến hết năm 2025, mà kế hoạch thu mua lúa gạo cho năm 2026 cũng bị bỏ ngỏ. Chưa dừng lại ở đó, Chính phủ Philippines còn có kế hoạch nâng thuế nhập khẩu gạo từ mức 15% hiện nay lên 35% trong thời gian tới.
Tương tự, thị trường Indonesia sau một năm mua vào ồ ạt thì từ đầu năm 2025 đến nay đã dừng nhập khẩu, ưu tiên cho chiến lược tự chủ nguồn cung lương thực.
Ở một diễn biến khác, Ấn Độ tiếp tục xả kho lượng lớn gạo tồn đọng khiến nguồn cung gạo tăng cao. Nhu cầu mua vào của các thị trường không đáng kể làm áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt, mặt bằng giá gạo xuất khẩu giảm rất mạnh.
Hiện tại, Myanmar đang chào giá gạo trắng chỉ từ 275 - 280 USD/tấn, Ấn Độ bán ra với mức giá dưới 300 USD/tấn. Ngay cả Thái Lan có chất lượng gạo tốt cũng chỉ chào giá quanh mức 350 USD/tấn. Bối cảnh đó khiến doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam không thể không lo lắng.
Gạo là một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của tỉnh An Giang. (Ảnh: Văn Sĩ/TTXVN0
Liên quan đến việc Việt Nam tăng nhập khẩu gạo trong khi xuất khẩu gặp khó khăn, bà Phan Mai Hương đánh giá, các doanh nghiệp Việt Nam rất linh hoạt, nhạy bén trong việc xoay chuyển tình thế, duy trì hoạt động kinh doanh. Ngoài lượng gạo trắng nhập khẩu phục vụ cho chế biến bún, phở và thức ăn chăn nuôi trong nước, doanh nghiệp Việt Nam cũng tranh thủ làm thương mại cho các khách hàng có nhu cầu mua gạo giá rẻ mà Việt Nam không còn sản xuất.
Theo bà Phan Mai Hương, lúa gạo không chỉ là hàng hóa đơn thuần mà còn là một công cụ chính trị, đối ngoại của nhiều quốc gia. Doanh nghiệp xuất khẩu phải đặc biệt theo sát biến động chính sách thương mại của các nước nhập khẩu lớn, nhất là thuế nhập khẩu và biện pháp bảo hộ mới.
Khi các nước nhập khẩu lớn đẩy mạnh tự chủ lương thực, cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu sẽ ngày càng khốc liệt.
Việt Nam buộc phải chuyển từ mô hình tăng sản lượng sang chiến lược nâng giá trị gia tăng, tập trung phân khúc gạo thơm, chất lượng cao, xây dựng thương hiệu mạnh và nâng cao khả năng dự báo thị trường.
Chỉ khi kết hợp hài hòa giữa điều tiết sản xuất, dự trữ và đa dạng hóa kênh tiêu thụ, ngành gạo Việt Nam mới có thể đứng vững trước các biến động khó lường của thị trường quốc tế./.
(TTXVN/Vietnam+)
Nguồn VietnamPlus : https://www.vietnamplus.vn/nganh-lua-gao-viet-nam-chu-dong-thich-ung-khi-cung-vuot-cau-post1068981.vnp