Ngành máy bay không người lái 'khát' nhân lực chất lượng cao

Ngành máy bay không người lái 'khát' nhân lực chất lượng cao
5 giờ trướcBài gốc
Dương Khắc Luân - sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM thiết lập điều khiển drone. Ảnh: Hà An
Thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực
Dương Khắc Luân - sinh viên Khoa Điện - Điện tử, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, có niềm đam mê nghiên cứu drone từ nhiều năm qua. Luân cùng các thành viên khác tham gia nghiên cứu, chế tạo drone tại Trung tâm Robot thông minh, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM do TS Đặng Xuân Ba hướng dẫn.
Drone do Luân và nhóm nghiên cứu chế tạo phục vụ việc tưới nước, bón phân, phun thuốc trừ sâu trong chăm sóc cây nông nghiệp ở những vườn có diện tích lớn. Sản phẩm có dung tích bình chứa tối đa 70 lít, tầm bay cao 50m, rất hữu ích đối với nông dân. “Nhu cầu của phía đối tác lớn, nhưng khó khăn của nhóm hiện nay là thiếu nhân lực để thực hiện dự án”, TS Đặng Xuân Ba cho biết.
Drone, hay còn gọi là máy bay không người lái (UAV - Unmanned Aerial Vehicle), là thiết bị bay được điều khiển từ xa hoặc hoạt động tự động nhờ hệ thống định vị và cảm biến. Ngày nay, drone được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau như quay phim, chụp ảnh trên không, giám sát an ninh, khảo sát địa hình, giao hàng, phun thuốc trong nông nghiệp, hay thậm chí trong thi đấu và biểu diễn bay. Nhờ khả năng linh hoạt, nhỏ gọn và chi phí vận hành thấp, drone đang trở thành công cụ quan trọng trong cả đời sống dân dụng lẫn quân sự.
Những quốc gia phát triển mạnh về ngành drone hiện nay gồm Mỹ, Trung Quốc, Israel, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Pháp. Dù ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống, tuy nhiên theo các chuyên gia, Việt Nam đang thiếu hụt nguồn nhân lực trong lĩnh vực này.
Theo ThS Bùi Quốc Anh (Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia TPHCM), thị trường drone ở Việt Nam có đà tăng trưởng 35 - 40% mỗi năm, nhưng khả năng đáp ứng nhu cầu nhân lực chuyên môn cao lại thấp, chỉ ở mức 5 - 7%, phần còn lại gần như đang bỏ trống. “Chúng ta có thể có những ý tưởng rất hay trên giấy, nhưng nếu không có con người thực sự triển khai, mọi thứ sẽ không đi tới đâu”, ThS Quốc Anh nói.
Theo Thiếu tá Phạm Công Nguyên (Bộ Tư lệnh TPHCM), hiện chưa có trường lớp hay trung tâm nào có chương trình, giáo trình đào tạo sử dụng, lắp ráp drone phục vụ các nhiệm vụ ở những ngành khác nhau. Cộng đồng đang tìm hiểu cách lắp ráp, điều khiển drone chủ yếu tự nghiên cứu qua Internet và hoạt động qua các hội nhóm tự phát.
Các hội nhóm này chưa có sự quản lý của chính quyền, thiếu tính ràng buộc về mặt pháp lý. Điều này khiến người sử dụng, nghiên cứu drone không có định hướng rõ ràng, chưa nhận thức được tính pháp lý, bảo đảm an toàn và các quy định của pháp luật trong vận hành drone, đặc biệt với drone FPV (thiết bị góc nhìn thứ nhất) chuyên dùng cho trinh sát quân sự, chiến đấu.
Với drone FPV, theo Thiếu tá Nguyên, hiện chưa có nhiều nhân sự được tiếp xúc nên không biết cách vận hành, điều khiển, bảo quản…, dẫn đến thực trạng thiếu lớp nhân lực có khả năng tiếp cận nền tảng drone cơ bản, sẵn sàng tiếp nhận các thiết bị chuyên dùng phục vụ cho nhiệm vụ quân sự và dân sự. Khi có tình huống xảy ra trên địa bàn, việc điều động cán bộ phối hợp xử lý còn chậm do thiếu nhân sự vận hành.
Một mẫu drone do giảng viên, sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM chế tạo. Ảnh: Hà An
Cần hoàn thiện thể chế
ThS Bùi Quốc Anh cho biết, các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc… đã xây dựng hệ thống đào tạo chính quy, xuất khẩu cả thiết bị lẫn nhân lực. Trong khi đó, Việt Nam mới dừng ở quy mô nhỏ lẻ, đào tạo manh mún, chưa được chuẩn hóa.
Ông cho rằng, dù người Việt Nam được nhiều quốc gia đánh giá thông minh, giỏi toán, nhưng thực tế ít người có thể tự thiết kế máy bay không người lái. Điều này đặt ra nguy cơ phụ thuộc vào công nghệ và nhân lực nước ngoài, đặc biệt trong những lĩnh vực nhạy cảm như quân sự hay an ninh mạng.
Chuyên gia này nhận định, để tránh bỏ lỡ cơ hội, Việt Nam cần phát triển nhân lực drone dựa trên ba trụ cột gồm: Chính sách, đào tạo, hợp tác quốc tế. Trong đó, cần hoàn thiện khung pháp lý và tiêu chuẩn ngành công nghiệp drone; xây dựng sandbox (khung thử nghiệm) cho phép bay thử nghiệm ở khu công nghệ cao; thu hút nhân tài bằng đãi ngộ, miễn giảm thuế; tích hợp các môn học về drone và UAV vào chương trình đại học; đẩy mạnh nghiên cứu, tiếp thu công nghệ tiên tiến; kết nối chuyên gia quốc tế.
“Việc xây dựng các chương trình đào tạo chính quy, bài bản phải được thực hiện ngay. Trong đó, cần liên kết chặt chẽ với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp. Chưa kể, chúng ta phải đẩy mạnh nghiên cứu phát triển công nghệ lõi, mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp thu tri thức và công nghệ tiên tiến”, ThS Quốc Anh nói.
Theo PGS.TS Nguyễn Hồng Quân - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Tuần hoàn (Đại học Quốc gia TPHCM), việc phát triển nguồn nhân lực cần có lộ trình cụ thể và có sự chung tay của nhiều bên. Nhân lực trong lĩnh vực drone hay bất kỳ ngành nghề nào khác cũng là một phần của nền kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững.
PGS Quân cho rằng, nhận thức và thực hành về kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững ở Việt Nam còn hạn chế và không thể giới hạn lĩnh vực này trong khuôn viên một nhà máy hay ngành nghề cụ thể. “Kinh tế tuần hoàn phải được nhìn nhận trong toàn bộ hệ sinh thái, ngành công nghiệp, thậm chí trong bối cảnh của cả nền kinh tế - xã hội địa phương”, ông nói.
Theo PGS.TS Lê Quốc Cường - Phó Ban Quản lý Khu Công nghệ cao TPHCM, chỉ khi người học được trang bị cả kiến thức chuyên sâu, kỹ năng thực hành và tư duy hệ thống, họ mới có thể trở thành những kỹ sư, nhà sáng chế và doanh nhân công nghệ trong tương lai. Đơn vị cam kết đồng hành cùng các bên là viện, trường, doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước trong việc xây dựng hệ sinh thái drone, UAV tại Việt Nam và kết nối nguồn lực để phát triển hạt giống công nghệ của ngành này.
Hà An
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/nganh-may-bay-khong-nguoi-lai-khat-nhan-luc-chat-luong-cao-post751608.html