Ngành sữa Việt Nam thời gian qua đã có bước tiến đáng kể cả về sản lượng, chất lượng và hệ thống phân phối. Tuy nhiên, để đạt được sự bền vững và chủ động nguồn cung, cần một chiến lược đồng bộ từ quy hoạch chăn nuôi, đầu tư công nghệ đến chính sách hỗ trợ người nông dân.
Ngành sữa Việt Nam đứng trước nhiều thách thức
Theo báo cáo của Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam, TS. Nguyễn Xuân Dương, trong những năm vừa qua, chăn nuôi bò sữa Việt Nam vẫn còn nhỏ lẻ, không tự chủ được nguồn nguyên liệu trong nước. Thị trường sữa Việt phụ thuộc lớn vào bột sữa nhập khẩu để pha chế lại (sữa hoàn nguyên). Thực trạng này đã dẫn đến hệ lụy người tiêu dùng trong nước không được tiếp cận nguồn dinh dưỡng tối ưu từ sữa tươi. Đồng thời việc nhập khẩu sữa bột và pha lại thành các sản phẩm sữa dạng lỏng sẽ làm giảm động lực của ngành chăn nuôi bò sữa, khiến người nông dân Việt Nam đứng ngoài chuỗi giá trị của ngành sữa trên chính quê hương mình.
TS. Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam. Ảnh: Khương Trung
Số liệu thống kê cho thấy, sản lượng sữa tươi nguyên liệu giảm nhanh từ mức tăng 17,7%/năm vào giai đoạn 2010 - 2015, xuống còn 6,7%/năm vào giai đoạn 2015 - 2020. Đến giai đoạn 2020 - 2024, tốc độ tăng trưởng giảm xuống còn 3,3%/năm. Những con số trên nói lên rằng, nếu không có sự điều chỉnh kịp thời, Việt Nam sẽ đối mặt nguy cơ không đạt mục tiêu 2,6 - 2,8 triệu tấn sữa tươi vào năm 2030 và chủ trương tự túc 60% nguyên liệu cho ngành sữa cũng không thể thực hiện.
Nguyên nhân chính dẫn đến hậu quả này là do việc nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa tăng 8 - 12%/năm (có năm lên tới 20%); thị trường sữa phát triển nóng, cạnh tranh gay gắt gây “nhiễu loạn” thị trường sữa. Ảnh hưởng của dịch COVID-19 đã làm đứt gãy chuỗi cung ứng, tăng chi phí chăn nuôi, khiến người nuôi khó tiêu thụ, phải giảm đàn hoặc ngừng chăn nuôi.
Hướng tới tự chủ nguồn nguyên liệu
Việt Nam là đất nước có truyền thống nông nghiệp lâu đời, được Trung ương Đảng và Nhà nước xác định “nông nghiệp là lợi thế quốc gia”. Trong đó, chăn nuôi là ngành quan trọng đối với nông nghiệp, nông thôn và an ninh dinh dưỡng, không chỉ cung cấp thực phẩm mà còn là sinh kế của hàng chục triệu nông dân.
Hiện nay Việt Nam đang đặt ra mục tiêu sau năm 2030 trở đi có thể tự chủ khoảng 60% nguồn sữa tươi cho ngành công nghiệp sữa, đến năm 2045 đưa sản lượng sữa các loại đạt khoảng 100 kg/người/năm.
Ngành sữa Việt Nam hướng tới tự chủ nguồn nguyên liệu.
Mục tiêu này hoàn toàn khả thi bởi không gian chăn nuôi và thị trường sữa trong nước còn rất rộng. So với các quốc gia có ngành bò sữa phát triển hoặc điều kiện tương đồng, quy mô đàn bò và gia súc cho sữa của Việt Nam hiện chưa tương xứng với điều kiện tự nhiên, tiềm năng lao động, khả năng đầu tư và nhu cầu tiêu thụ.
Hiện số lượng bò sữa bình quân của Việt Nam chỉ đạt 3,3 con/1000 người, bằng 1/3 Thái Lan và Nhật Bản; bằng gần 1/2 Hàn Quốc; hơn 1/4 Israel và chỉ bằng 1/26 Hà Lan. Với điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội, Việt Nam có lợi thế chăn nuôi gia súc cho sữa rộng hơn Nhật Bản và Israel. Do đó, đến những năm 2030, đàn bò sữa có thể tăng gấp 4 - 5 lần, đạt 1,3 - 1,5 triệu con, tương ứng sản lượng sữa tươi nguyên liệu 4,3 - 5,0 triệu tấn.
Khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học, chuồng trại, dinh dưỡng, giống và công nghệ số, đang thay đổi mạnh mẽ ngành chăn nuôi bò sữa. Tại Việt Nam, điển hình là Cụm trang trại bò sữa công nghệ cao của Tập đoàn TH tại Nghệ An, thuộc tốp đầu thế giới về chăn nuôi tập trung, với quy mô gần 70.000 con ngay trên vùng đất khô cằn.
Chiến lược nâng tầm ngành sữa Việt
Để ngành sữa Việt Nam phát triển mạnh mẽ, chủ động nguồn cung và nâng cao sức cạnh tranh, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. TS.Nguyễn Xuân Dương đã đưa ra một số kiến nghị, đề xuất để phát triển nguồn nguyên liệu sữa tươi trong nước. Trước hết, cần quy hoạch lại vùng chăn nuôi bò sữa theo hướng tập trung, gắn với vùng nguyên liệu thức ăn thô xanh. Điều này sẽ giúp giảm chi phí vận chuyển, bảo đảm nguồn thức ăn ổn định và kiểm soát dịch bệnh tốt hơn.
Các bộ, ngành liên quan ngành sữa cần hoàn thiện các thể chế, chính sách pháp luật thống nhất, minh bạch về tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật và có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, chế biến sữa sử dụng từ nguồn nguyên liệu sữa tươi trong nước.
Bên cạnh đó, tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong chăn nuôi và chế biến sữa. Mô hình chăn nuôi tập trung, áp dụng công nghệ cao, kết hợp phát triển mô hình chăn nuôi bò sữa, dê sữa của các hộ chăn nuôi chuyên nghiệp trong các hợp tác xã là giải pháp hoàn toàn phù hợp giúp Việt Nam có thể tự túc được phần lớn nguồn nguyên liệu cho nhu cầu phát triển ngành sữa, đặc biệt cho dòng sản phẩm sữa tươi sạch trong tương lai không xa. Đồng thời, cần đẩy mạnh đào tạo, nâng cao tay nghề cho đội ngũ kỹ thuật viên và người chăn nuôi.
Đẩy mạnh hoạt động truyền thông để người tiêu dùng phân biệt rõ hơn các loại sản phẩm sữa, nhất là giá trị của sữa tươi sạch, để mỗi người dân hiểu rằng, lựa chọn một sản phẩm sữa tươi sạch không chỉ là lựa chọn cho sức khỏe của riêng mình, mà còn góp phần xây dựng ngành sữa và nông nghiệp nước nhà.
Mới đây, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách thuộc Bộ Công Thương đã tổ chức Hội thảo khoa học và Tuần lễ sữa tươi sạch để lấy ý kiến từ chuyên gia, doanh nghiệp và cơ quan quản lý, làm cơ sở hoàn thiện dự thảo “Chiến lược phát triển ngành sữa đến 2030, tầm nhìn 2045”. Từ đó, góp phần thúc đẩy phát triển ngành sữa tươi theo hướng bền vững, đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm, đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng, hỗ trợ chính sách nội địa hóa ngành công nghiệp sữa.
Ngoài ra, cần có chiến lược xúc tiến thương mại bài bản cho sản phẩm sữa Việt Nam, đặc biệt là các sản phẩm hữu cơ, sữa tươi nguyên chất, sữa dinh dưỡng chuyên biệt. Việc xây dựng thương hiệu sữa Việt dựa trên yếu tố chất lượng, an toàn và bền vững sẽ giúp nâng cao vị thế trên thị trường quốc tế.
Việc ban hành dự thảo “Chiến lược phát triển ngành sữa đến 2030, tầm nhìn 2045” là cần thiết để thống nhất mục tiêu, giải pháp giữa các bộ, ngành, địa phương; bảo đảm an ninh dinh dưỡng, sinh kế nông dân; điều tiết thị trường trước áp lực cạnh tranh trong và ngoài nước; đồng thời, quản lý chặt chẽ một ngành thực phẩm đặc thù, giá trị cao, phục vụ chủ yếu cho trẻ em, người già và người bệnh.
Thùy Dương