Bác Hồ tới thăm một lớp O A ở Hà Nội tháng 9-1945
1. Tôi gặp cụ Nguyễn Văn Đàm ở nhà riêng tại phố Tứ Liên, phường Hồng Hà (Hà Nội) vào một ngày đầu tháng 9. Trên nét mặt của ông cụ vừa tròn 86 tuổi này dường như vẫn đọng lại niềm hân hoan chào mừng Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh mùng 2-9. Tôi gợi ý: “Cụ còn nhớ gì về Tổng khởi nghĩa và ngày 2-9-1945 không?”. Cụ Đàm lắc đầu: “Hồi đó tôi còn nhỏ, lại ở làng quê xa Hà Nội nên không được chứng kiến những sự kiện đó. Chỉ biết là trong xóm trong làng mọi người xôn xao lắm. Ngừng một lát chắc là để nhớ lại, ông kể tiếp: “Tôi chỉ nhớ là vào những ngày nửa cuối tháng 8, các anh chị tôi cứ thì thầm rất bí mật, rồi họ kéo nhau đi đâu đó đến tối mịt mới về, nhưng câu chuyện nghe rôm rả lắm (cười). Tôi trẻ con nên chỉ biết vậy thôi”.
Tôi lại gợi ý: “Năm đó cụ tròn 6 tuổi, đủ tuổi đi học, chuyện này chắc cụ còn nhớ?”. Cụ Đàm cười rất vui: “Chuyện ngày đầu tiên đi học thì tôi quên làm sao được. Giờ vẫn còn nguyên háo hức đây này”. Cụ Đàm nhớ lại: “Đúng sáng 5-9-1945, tôi được thầy tôi cho đi học. Tôi nhớ sáng hôm đó thầy tôi thay cho tôi bộ quần áo sạch sẽ mà u tôi đã giặt hôm trước. Thầy tôi bảo: “Hôm nay con được đi học. Là học trò thì quần áo phải sạch sẽ, nhớ đừng có nghịch ngợm làm bẩn thì khỏi học”. Tôi nghe thầy dặn như vậy cũng sợ lắm. Chỉ sợ nghịch bẩn quần áo thầy u không cho đi học nữa. Rồi thầy dẫn tôi cùng với 3 hay 4 đứa trẻ trong thôn đến lớp. Lớp học hồi ấy chúng tôi gọi là lớp “O A” chứ không gọi là lớp “vỡ lòng” hay lớp 1 như bây giờ. Người dạy học là ông giáo Vượng ở cùng xã. Ông giáo Vượng năm đó chừng hơn 40 tuổi, rất nghiêm khắc bởi bọn trẻ con vốn tính hiếu động. Ông giáo không bao giờ mắng hay quát, mà chỉ cần lấy thước kẻ gõ “cạch… cạch...” lên mặt bàn là lũ học trò chúng tôi im phăng phắc.
Năm học đầu tiên dưới chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn duy trì theo hệ thống giáo dục cũ. Lớp “O A” như cụ Đàm nói đươc gọi là “lớp Nhất”. Cụ Đàm kể tiếp: “Lớp “O A” đầu tiên của xã Dị Sử do chính quyền xã tự đứng ra mở tại đình Đa Sĩ, thuộc thôn Rừng. Chỉ tiếc rằng do thời gian và qua mấy cuộc chiến tranh nên đình Đa Sĩ không còn nữa”. Được biết, theo hệ thống giáo dục của chính quyền Pháp thì cấp xã hồi đó không có cấp học phổ thông. Cả huyện Mỹ Hào chỉ có một trường Tiểu học đặt tại phố Thứa (hồi đó là huyện lỵ) xã Dị Sử. Cụ Đàm cho biết thêm: “Cũng phải 10 năm sau huyện tôi mới có trường cấp 2 đặt ở phố Bần Yên Nhân (nay là phường Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên) cách làng tôi 5 cây số. Học sinh theo học không chỉ riêng ở huyện Mỹ Hào mà các xã ở các huyện lân cận như Văn Lâm, Yên Mỹ, Văn Giang, Khoái Châu… cũng đến học. Học sinh thường phải ở trọ vì trường xa nhà, đi lại khó khăn, phương tiện không có, đi bộ là chính”.
Cụ Nguyễn Văn Đàm (ngoài cùng bên trái) kể chuyện cho các con, cháu nghe về năm học đầu tiên 1945
2. Cụ Nguyễn Văn Đàm bảo: “Lớp “O A” của tôi chỉ có ngần ấy học sinh thôi. Bảng đen được trường Tiểu học Thứa cho mượn, được dựng lên giá 3 chân nên dễ di chuyển, hoặc khi nào vào học thì mới dựng, còn tan học thì được gấp lại kê góc tường. Trường Tiểu học còn cho mượn cả bàn ghế nữa, chẳng là trường đặt ở trung tâm xã, gì thì cũng có chút gọi là có sự giúp đỡ của địa phương sở tại chứ”.
Cụ Đàm kể tiếp: “Lớp học được khai giảng ngay sau đó. À, lớp học ở chái đình chứ không được bày bàn ghế vào gian chính giữa. Không có trống trường, cũng chẳng có vị lãnh đạo nào lên phát biểu cả. Ông giáo Vượng gõ gõ thước “cạch… cạch…” xuống mặt bàn mấy cái rồi lấy phấn trắng viết lên bảng. Vở viết cũng không có, học trò ban đầu nhận mặt chữ khi thầy viết lên bảng rồi đồng thanh đọc to theo thầy. Ví dụ như thầy đọc “O” xong thì gõ thước xuống mặt bàn đánh “cạch” một cái. Học trò đọc “O” theo. Cứ gọi là râm ran cả lên”.
Nghe cụ Đàm kể tôi cũng thấy vui vui và hỏi: “Chưa có vở viết với sách giáo khoa thì học chữ như thế nào?”. Cụ Đàm bảo: “Ông giáo Vượng viết chữ lên bảng. Qua vài ngày nhận mặt chữ thì ông giáo gọi từng trò lên viết. Thời gian sau thì chúng tôi có vở viết, nhưng mới chỉ viết bằng bút chì thôi. Viết rồi tẩy, tẩy rồi viết, quyển vở cứ lem nhem sờn cả giấy”. Tôi gợi ý thêm: “Thế ngoài chuyện cụ đi học “O A” ấy thì còn có chuyện gì nữa liên quan đến học hành không ạ?”. Cụ Đàm nói luôn: “Cùng đồng thời với khai giảng năm học đầu tiên dưới chính quyền nhân dân ra thì tôi còn nhớ là có phong trào Bình dân học vụ. Chính anh Long của tôi và cả thầy tôi cũng tham gia tích cực lắm. Anh Long tôi đã là hương sư nên dạy học là dĩ nhiên rồi. Còn thầy tôi tuy mới gọi là biết đọc, biết viết nên không đi dạy mà ông cụ hăng hái đi vận động mọi người tham gia học xóa mù chữ. Chẳng là ông cụ nhà tôi được nhân dân trong xã tín nhiệm bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính xã”.
Học sinh trường Mầm non Bà Triệu hưởng ứng phong trào đăng tải ảnh online “Tôi yêu Việt Nam” trên fanpege Trung tâm Văn hóa - Thông tin và Thể thao phường Cửa Nam
3. Phong trào “Bình dân học vụ” còn gọi là phong trào xóa nạn mù chữ, hay phong trào “diệt giặc dốt” được tiến hành đồng thời trong năm học đầu tiên nên khắp các làng, các xã ai ai cũng hồ hởi rủ nhau đi học. Học ngày có, học ban tối có, học ở đình làng có và học ở nhà của ai đó cũng có. Tôi hỏi: “Phong trào diệt dốt ấy, ông có nhớ chuyện gì hay và vui không?”. Cụ Đàm nhíu mày để nhớ rồi cười: “Chuyện hay và vui thì nhiều lắm vì hồi đó Chính phủ yêu cầu mọi người đều phải học mà. Tôi nhớ cổng vào chợ Thứa rộng nên được chia làm 2 lối, to và nhỏ. Ở lối nhỏ có dựng một con bò đan bằng cót, bên cạnh là tấm bảng đen viết đủ bảng chữ cái tiếng Việt. Ai muốn vào chợ đều phải dừng lại đọc to các chữ cái trên bảng. Nếu đọc được thì chứng tỏ chăm học, xin mời vào theo lối to. Còn ai đọc sai hoặc không đọc được chứng tỏ lười học, xin mời chui qua mông bò mà vào. Cách thức ấy chẳng trừ một ai. Nhiều bà, nhiều cô đánh vần sai phải chui mông bò, vừa tức, vừa tếu. Nhưng cái chính là đi chợ xong, về đến nhà, những người đánh vần sai phải tự ôn bài cho thuộc, cho đúng, để hôm sau được vào chợ theo lối “đàng hoàng”.
Cụ Đàm cho hay: “Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, gia đình tôi tản cư sang huyện Bình Giang của tỉnh Hải Dương nên việc đi học của tôi bị gián đoạn mất 2 năm. Những người anh của tôi thoát ly đi theo kháng chiến. Anh Long tôi làm công tác bình dân học vụ và bổ túc văn hóa trong vùng tự do. Có năm anh tôi còn cùng các giáo viên kháng chiến đi sát vùng địch hậu ở huyện Ân Thi để mở những “lớp học kháng chiến”. Người anh khác của tôi là anh Phong thì vào bộ đội ngay ngày toàn quốc kháng chiến rồi hy sinh ở biên giới Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai năm 1949”.
Câu chuyện thoáng ngưng lại. Lâu sau cụ Đàm cho hay: “Năm 1958, khi tổng kết phong trào Bình dân học vụ do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, anh Long và thầy tôi cùng được nhận quà tặng của Bác Hồ. Đó là bức chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh với dòng chữ “Tặng chiến sĩ ziệt zốt” cùng chữ ký của Người. Bức ảnh Cụ Hồ tặng vẫn được gia đình gìn giữ như báu vật”.
Cụ Nguyễn Văn Đàm ngừng câu chuyện, ánh mắt vẫn vẹn nguyên sự háo hức khi nhắc về “ngày dầu tiên đi học”. Tôi nắm chặt tay cụ, chúc mạnh khỏe và nói: “Cụ có vinh dự được là học trò của nhiều cái đầu tiên: Năm học đầu tiên dưới chính quyền cách mạng này, lớp học phổ thông đầu tiên của xã này, dĩ nhiên là lứa học trò đầu tiên nữa”.
Nguyễn Trọng Văn