Ngược dòng thời gian, những câu chuyện về các nhà báo cách mạng luôn gắn liền với lịch sử hào hùng của dân tộc, khiến các nhà báo thế hệ sau không khỏi xúc động, tự hào.
1. Nhà báo, nghệ sỹ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản sinh năm 1917, tại thôn Liễu Viên, xã Nghiêm Xuyên, huyện Thường Tín, Hà Tây (nay là Hà Nội). Ông là tác giả của hàng nghìn bức ảnh lịch sử cách mạng quý hiếm ở thế kỷ XX, một trong bốn nghệ sĩ đầu tiên của ngành nhiếp ảnh Việt Nam được Chủ tịch nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1.
Nguyễn Bá Khoản được xem là phóng viên nhiếp ảnh báo chí cách mạng đầu tiên của nước ta từ trước Cách mạng tháng Tám. Vào thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương 1936 - 1939, ông đã sớm có những bức ảnh đăng trên các tờ báo Tin Tức, Bạn Dân, Thời Thế… Nhà nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản đã ghi dấu ấn lịch sử bằng các bức ảnh đăng trên báo như: Hội nghị Báo giới Bắc Kỳ năm 1937, Quang cảnh Hội nghị về Chương trình giảng dạy và truyền bá Quốc ngữ tại Hà Nội, nhất là những tấm ảnh chụp cuộc mít tinh biểu dương lực lượng quần chúng hùng hậu của 25.000 đồng bào nhân Ngày Quốc tế Lao động 1/5/1938 tại khu Đấu xảo - Hà Nội. Vào thời kỳ tiền khởi nghĩa, dù trong hoàn cảnh rất khó khăn, ông vẫn kiên trì cùng chiếc máy ảnh ngược xuôi bám sát đời sống Nhân dân lao động và phong trào cách mạng để phản ánh kịp thời trên báo chí.
Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Hà Minh Hải thăm Báo Kinh tế & Đô thị, tháng 1/2024. Ảnh: Phạm Hùng
Nguyễn Bá Khoản cũng là một trong những nhà nhiếp ảnh tiên phong, tiêu biểu thời kỳ nước nhà mới giành được độc lập tự do và chống quân Pháp tái xâm lược ở miền Bắc. Ông đã vượt qua mọi gian khó, ghi lại những bức ảnh mang tính lịch sử ở Thủ đô Hà Nội và chiến khu Việt Bắc. Đó là những hình ảnh sống động phản ánh hoạt động của các nhà lãnh đạo đất nước tới những người lính cảm tử đang trực chiến chống chọi với kẻ thù.
Thật hiếm có một nghệ sĩ nhiếp ảnh có hành trình dấn thân phong phú vào Nam ra Bắc xông pha lửa đạn như Nguyễn Bá Khoản. Với hơn 60 năm cầm máy, ông đã để lại một di sản ảnh tư liệu thật đồ sộ. Đáng quý hơn, những năm cuối đời ông còn hiến tặng 4.000 phim gốc và 2.700 bức ảnh cho Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Đó là chưa kể 5 vạn phim của ông được gia đình lưu giữ và tiếp tục chọn lọc hiến tặng. Nghĩa cử của nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản đã được một nhà lãnh đạo cao cấp kỳ cựu bấy giờ của ngành ngoại giao và văn hóa là GS Hoàng Minh Giám đánh giá cao. Bộ phóng sự ảnh được giải thưởng Hồ Chí Minh và tất cả ảnh của Nguyễn Bá Khoản giai đoạn 1937 - 1946 là những tài liệu lịch sử chân thật, sinh động, quý hiếm, trong đó có nhiều ảnh là bản gốc duy nhất, không có người thứ hai chụp.
2. Trong dịp kỷ niệm 30 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cựu sĩ quan thám báo Mỹ Fred đã tìm đến để trao lại cho gia đình liệt sĩ Đặng Thùy Trâm cuốn nhật ký mà một người lính Mỹ thu giữ được từ 35 năm trước khi chị Trâm hi sinh tại Đức Phổ. Đồng thời ông cũng nhờ chị Kim Trâm (em gái liệt sỹ Đặng Thùy Trâm) tìm, trao lại hai cuốn phim và chiếc máy ảnh hiệu Canon của một nhà báo bị lính Mỹ bắn chết tại Đức Phổ năm 1970. Chủ nhân những bức ảnh và chiếc máy ảnh đó là nhà báo, nhà quay phim Điện ảnh Giải phóng Khu V Nguyễn Văn Giá.
Đầu tháng 6/2005, những kỷ vật thiêng liêng của ông được trở về với gia đình trong niềm xúc động lớn lao. Nhà báo Nguyễn Văn Giá sinh năm 1930, quê làng Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Ông vào bộ đội từ năm 16 tuổi. Năm 18 tuổi ông được kết nạp Đảng, sau đó được cử đi học nhiếp ảnh, trở thành phóng viên chiến trường ngay trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở Trung đoàn 48 và đã ghi lại nhiều tấm ảnh có giá trị.
Nhà quay phim Nguyễn Văn Giá bên chiếc máy quay Konvat năm 1961. Ảnh: Gia đình cung cấp
Lấy vợ chưa được hai tháng, ông nhận lệnh điều động vào chiến trường miền Nam, là phóng viên quay phim thuộc Tiểu ban Điện ảnh giải phóng, trực thuộc Ban Tuyên huấn Khu ủy V. Năm 1967 ông liên tục có mặt ở các địa bàn ác liệt trên chiến trường Quảng Đà. Sau những năm ở chiến trường, sức khỏe sút kém, cấp trên cho ra Bắc chữa bệnh nhưng ông xin ở lại, xung phong vào chiến trường Quảng Ngãi với ý định quay một bộ phim thật có giá trị trước khi ra Bắc.
Ngày 27/10/1970, ông hi sinh tại xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) trong một trận càn của địch. Suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, vừa là chiến sĩ, vừa là phóng viên mặt trận, Nguyễn Văn Giá đã tham gia chiến đấu, chụp ảnh và viết báo ở những mặt trận ác liệt, trong những thời kỳ vô cùng gian nan, có lúc cận kề với cái chết, ghi lại những bức ảnh mang tính lịch sử như ảnh chụp phái đoàn Việt Nam cầm cờ đỏ sao vàng lên Ô Chợ Dừa họp với phái đoàn Anh, Pháp để đưa đồng bào còn mắc trong nội thành rút ra ngoại vi TP. Bốn năm lăn lộn ở các chiến trường Khu V, thời gian ở Quảng Ngãi, Đức Phổ, ông và đồng nghiệp đã quay hàng chục vạn những thước phim tư liệu vô giá.
3. Nhà báo, nghệ sỹ nhiếp ảnh Chu Chí Thành sinh năm 1944 tại Hưng Yên. Sau khi tốt nghiệp ngành Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông trở thành phóng viên của Thông tấn xã Việt Nam từ năm 1967. Ông từng là Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, Trưởng Ban Biên tập Ảnh (Thông tấn xã Việt Nam).
Nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhà báo Chu Chí Thành được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật năm 2022 với tác phẩm “Hai người lính”. Với cá nhân ông, đây cũng là những bức ảnh đặc biệt, thể hiện khát vọng hòa bình, hòa hợp, ước mơ thống nhất non sông và tinh thần nhân văn sâu sắc. Theo lời kể của nhà báo, nghệ sỹ nhiếp ảnh Chu Chí Thành, bộ ảnh gồm 4 bức: “Tay bắt mặt mừng” với hình ảnh một nhóm người gồm quân Giải phóng, nữ du kích và lính quân đội Cộng hòa vui vẻ, tươi cười bắt tay nhau; “Hai người lính” là hình ảnh chiến sĩ quân Giải phóng Nguyễn Huy Tạo và anh lính Cộng hòa Bùi Trọng Nghĩa khoác vai nhau; “Cầu Quảng Trị” ghi lại khoảnh khắc cây cầu đổ nát, nơi từng là giới tuyến lửa khốc liệt của hai miền; Bức cuối mang tên “Những bàn tay lưu luyến” là hình ảnh những người lính Sài Gòn được trả tự do và các chiến sĩ Giải phóng lưu luyến vẫy tay chào nhau trên sông Thạch Hãn.
Phóng viên Hứa Kiểm của Thông tấn xã Việt Nam gặp gỡ quần chúng Nhân dân Sài Gòn để đưa tin, ảnh về thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ảnh: TTXVN
Năm 1966, khi vừa học hết năm ba tại Khoa Văn trường Đại học Tổng hợp, Chu Chí Thành được lựa chọn để đi chiến trường miền Nam. Cũng từ đó, chiếc máy ảnh trở thành vật bất ly thân của ông. Cuối năm 1967, ông được phân công về tổ ảnh quân sự của Thông tấn xã Việt Nam, bắt đầu hành trình ghi lại những khoảnh khắc lịch sử không thể nào quên. Từ Hà Nội đau thương mà anh hùng trong 12 ngày đêm lịch sử, đến mảnh đất lửa Quảng Bình, Quảng Trị. Nơi đâu, Chu Chí Thành cũng có mặt. Sống và chết đôi lúc chỉ cách nhau một nhịp bom rơi, một làn đạn lạc.
Năm 1973, Chu Chí Thành được cử vào Quảng Trị để theo dõi sự kiện trao trả tù binh sau khi Hiệp định Paris được ký kết. Trong khi chờ đợi sự kiện chính thức diễn ra, ông tranh thủ đi thực tế. Tại chốt Long Quang thuộc xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong (Quảng Trị), ông tận mắt chứng kiến cảnh những người lính hai bên giới tuyến ngồi lại, cùng uống nước, hút thuốc và nói với nhau những câu chuyện hằng ngày. Trong thời khắc đó, ông nhận thấy khát vọng hòa bình, thống nhất non sông đang ánh lên trong từng ánh mắt, nụ cười của những người lính chiến. Dẫu ở phía nào, ước mơ ấy vẫn rất đáng trân trọng. Thời khắc đó, dường như họ không còn là những đối thủ trên chiến trường nữa. Trong không khí đó, một anh lính Sài Gòn đã khoác vai một chiến sĩ Giải phóng và đề nghị: “anh chụp cho chúng em một kiểu ảnh nhé”. Chu Chí Thành ngay lập tức đưa máy lên và bức ảnh mang tên “Hai người lính” ra đời, rồi trở thành một lời “tiên tri” cho ngày thống nhất, toàn vẹn non sông 2 năm về sau.
Cũng trong ngày đặc biệt ấy, các bức “Tay bắt mặt mừng” cũng được “khai sinh”. Bức “Những bàn tay lưu luyến” được ông chụp trong sự kiện trao trả tù binh năm 1973 cũng tại Quảng Trị. Bức cuối cùng mang tên “Cầu Quảng Trị” mang tính khái quát hơn khi ghi lại bối cảnh chung diễn ra các sự kiện nói trên. Cây cầu như một dấu gạch nối dài giữa quá khứ thương đau, hiện tại và niềm tin vào tương lai hòa hợp khi những người ở hai đầu chiến tuyến xích lại gần nhau.
Thái Phương