Một sớm đầu thu, khi tôi đang đi bộ qua ga tàu để đến trường, bên hông khoác cái túi da của người lớn, đầu đội mũ nan, chân bước tung tăng thì thấy một chú bộ đội từ ga tàu bước ra. Thấy chú, tôi cất tiếng chào thật to: “Cháu chào chú bộ đội”. Chẳng ngờ, chú ấy cứ nhìn tôi chằm chằm rồi hỏi:
- Sao cháu lại có chiếc sắc cốt ấy?
Tôi thản nhiên trả lời:
- Ông nội cháu bảo là của cha cháu để quên trong một lần về thăm nhà ạ. Mà chẳng biết cha cháu bao giờ mới về!
Ảnh minh họa.
Nghe đến đây, chú chẳng nói chẳng rằng lao đến ôm chầm lấy tôi mà hít hà làm tôi hoảng sợ khóc toáng lên. Đúng lúc mẹ tôi đang đi phía sau dừng lại mua bánh mì ở cửa ga vội lao đến nhưng rồi chính cái túi xách trong tay mẹ rớt phịch xuống đất, hai đầu gối mẹ như sợi bún mềm nhũn ra, chỉ có dòng lệ trên đôi mắt thâm quầng vì thức trắng nhiều đêm là tứa ra như một dòng suối… Cha tôi đã trở về bất ngờ như thế.
Giây phút đó như thể vừa mới hôm qua, một gia đình trẻ đoàn tụ sau chiến tranh đầy thiếu thốn nhưng ấm áp. Từ đó tôi được cha cưng nựng. Sáng ra, cha dậy sớm gọt cho cây bút chì viết dở để tôi mang đi học. Mẹ thức khuya sửa lại cái áo trắng của chị họ tôi cho vừa với thân hình gầy gò của tôi. Tuổi thơ tôi đầy ắp tiếng cười nhưng vẫn đọng lại chút tiếc nuối khi chẳng bao giờ được cha đưa đến trường.
“Cha còn bận đi làm. Công việc của cha phải đi suốt”. Tôi đã được nghe câu giải thích ấy của mẹ không biết bao lần suốt thời thơ trẻ. Sao cha không đi làm vào lúc 7 giờ kém và tan sở vào 5 giờ chiều như cha của các bạn khác trong lớp hay tại cha không yêu mình, không thương mẹ. Tôi có cả ngàn câu hỏi như thế. Có lần, lớp tôi sắp tan học thì mây đen kéo đến, trời tối tăm mù mịt, sấm sét đì đùng, mưa như trút nước. Các bạn đều có cha mẹ mang ô đến đón còn tôi ngồi thu lu góc lớp. Vừa sợ vừa tủi thân, biết mẹ đang đi xuống xã, lúc này tôi chỉ cầu mong cha sẽ đến đón mình. Cha sẽ giơ một cái ô lên che cho tôi cả một trời mưa gió.
Nhưng cha đã không đến, chỉ có tôi lủi thủi đi về trong cơn mưa, người ướt sũng. Đêm ấy tôi sốt, tôi khóc vì giận cha. Mẹ về muộn, sờ trán tôi rồi lật đật đi nấu một bát cháo nóng, đặt trước mặt tôi và nói: “Cha và đồng nghiệp đang tác nghiệp ở vùng lũ bị cô lập chưa biết sống chết ra sao?”. Từ lúc ấy, tôi đi đâu cũng tự lo cho mình, không còn trách cha nữa…
* * *
Cuối năm lớp mười hai, cả lớp tôi xôn xao chuyện chọn khối, lựa trường. Người thức thời đón đầu ngành dễ xin việc, đứa học lực kém găm sẵn ngành điểm thấp để “chống trượt”. Còn lại tôi là đứa ngu ngơ nhất dẫu lực học không đến nỗi nào nhưng chẳng có ai tư vấn, bảo ban cho một hướng đi.
Cô chủ nhiệm hỏi khẽ: “Cha em làm nghề gì nhỉ, xin lỗi vì cô mới đến nhận công tác”. Tôi nhớ hôm cô mới đến nhận lớp. Có đứa bảo cô bị thương khi còn ở thanh niên xung phong nên có vết sẹo dài ở tay, vì thế cô không dám mặc áo cộc tay. Một mảnh đạn đã lấy đi niềm hạnh phúc giản đơn của một người phụ nữ. Có lẽ vì thế cô luôn dành cho những đứa con gái mới lớn như chúng tôi tình yêu thương.
Tôi ngước nhìn cô:
- Thưa cô, cha em làm nhà báo trên tỉnh.
- Thế em có muốn theo nghề đó không?
- Thưa cô, cha em đi suốt ạ, mệt lắm!
- Cô thấy có người ngồi không vẫn kêu mệt đó thôi. Mệt vì sự vô vị của cuộc sống. Cuộc sống này nên nhìn vào bản chất của nó em ạ…
Không ngờ, câu nói trong buổi chiều tháng Ba ấy đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Tôi quyết định thi vào ngành báo chí theo nghiệp của cha. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, khi tôi nhận được bằng tốt nghiệp cũng là lúc cha nghỉ công tác. Hôm tôi đến nhận công tác sau khi trúng tuyển, bác Tổng Biên tập dẫn tôi đến căn phòng nhỏ nằm cuối dãy nhà và nói: “Đây là phòng làm việc của cha cháu, nếu cháu muốn chú sẽ phân công cháu làm tiếp công việc của ông ấy…”.
Từ hôm đó, tôi tiếp tục làm những công việc của cha còn dang dở. Những miền quê tôi đến đầy nắng gió. Thì ra, kiếm được miếng ăn người dân phải vắt kiệt mồ hôi để bám đất, gom góp từng hạt lúa, củ khoai. Bàn chân họ như rễ cây bám trên vách đá mà nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Họ không lo xe xấu, xe đẹp, nhà cao, nhà thấp mà cửa luôn mở, cổng không khóa, bát nước chè xanh, gói thuốc lào đón hàng xóm láng giềng vào ra đầy ắp tiếng cười tình làng nghĩa xóm…
Một lần, tôi xuống cơ sở để viết bài về thực trạng mở đường liên xã, được anh em dưới này cho biết có nhà ông Căn cương quyết không di dời một ngôi nhà sàn nhỏ để mở rộng lòng đường. Hơn nữa, vị trí ấy lại là một khúc cua. Khi cùng anh em cán bộ xuống tiếp xúc, ông chủ nhà cương quyết không hợp tác. Khi chúng tôi sắp ra về, bất chợt tôi nhìn thấy trên xà nhà khắc dòng chữ. Tôi đưa máy ảnh chụp theo một thói quen. Thấy thế, ông Căn có vẻ xúc động kể: “Năm đó vợ vừa mất chưa qua giỗ đầu, bão về làm sập nhà cửa, tôi suy sụp lắm. Tôi trốn trong bụi cây hút thuốc lá vặt mặc cho mấy đứa con quấy quả, đàn lợn kêu đói rít lên trong chuồng. Có một nhà báo đã đỡ tôi dậy, cho tôi một nghị lực để vượt qua. Tôi đi theo anh nhặt lại từng cây cột, mảnh gỗ. Anh ấy xoay trần đục đẽo, bất kể nắng mưa. Anh đã gác cây bút lại, cầm cái đục, cái cưa lên như một người thợ và cho tôi một mái ấm…”.
Nói xong, ông mở tủ, lấy ra một chiếc ba lô đã cũ, trong đó chỉ vỏn vẹn một chiếc mũ tai bèo với vết đạn thủng trên vành mũ:
- Cô nhìn thấy gì không? Đó là vết thương chiến tranh, vì nó mà tôi không còn nhớ gì hết…
Tôi nhìn và cảm nhận được vết đạn đó cứ xoáy vào tâm trí những người lính. Về nhà, khi nấu cơm, hai mẹ con lại nhắc đến chuyện nghề báo của cha. Mẹ tôi đặt mớ rau xuống, quệt mồ hôi trên trán nhỏ nhẹ bảo:
- Vì một sự day dứt nên cha con quyết đi theo sự nghiệp ấy. Nghe bảo, ngày trước tiểu đội đã không bảo vệ được một phóng viên chiến trường khi rút đi.
Đêm ấy, khi tôi đem tấm ảnh zoom ra xem lại. Cha thức giấc, dậy pha trà, ông nheo mắt nhìn vào màn hình máy tính và thốt lên:
- Con đã đến đây rồi sao?
- Vâng, thưa cha.
Linh cảm mách bảo tôi: Hay cha chính là ông nhà báo đã dựng căn nhà cho ông Căn? Cha tôi đặt tách trà xuống, bần thần kể lại:
- Năm đó, trong đêm tối, cha và các đồng đội không tường mặt người lính đó. Chỉ nhớ máu chảy ra từ phía sau gáy và không thấy chú ấy còn cử động. Lúc ấy buộc phải rút lui, chỉ kịp cầm theo cuốn sổ ghi chép của nhà báo ấy. Sau này, khi cha nhìn thấy vết sẹo đó, cha luôn nghĩ đó là người lính kia. Vết thương đã làm bác ấy mất đi một phần ký ức, vì thế bác Căn luôn trân trọng những gì thuộc về quá khứ.
Sau khi gặp lại cha tôi, bác Căn đã vui vẻ đồng ý cho di chuyển ngôi nhà sàn nhỏ. Trong sâu thẳm tâm hồn, tôi tin dù đó có phải là người phóng viên năm nào may mắn sống sót hay không thì con đường mà cha con tôi đã chọn vẫn rất hạnh phúc và đáng tự hào.
Truyện ngắn của Bùi Việt Phương