Nghị định 219: Bước ngoặt lớn trong quản lý người lao động nước ngoài tại Việt Nam. Ảnh: SGT
Ngày 7-8-2025, Chính phủ ban hành Nghị định 219/2025/NĐ-CP (Nghị định 219) quy định về NLĐNN làm việc tại Việt Nam, có hiệu lực ngay trong ngày ký để thay thế và kế thừa phần lớn nội dung của Nghị định 152/2020/NĐ-CP (Nghị định 152) và Nghị định 70/2023/NĐ-CP (Nghị định 70).
Không chỉ đơn thuần là một bản cập nhật kỹ thuật, Nghị định 219 đã định hình lại khung pháp lý quản lý NLĐNN theo hướng cụ thể và hiện đại hơn, tiệm cận chuẩn mực quốc tế. Đây được xem là bước ngoặt lớn trong quản lý NLĐNN tại Việt Nam, vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập và chuyển đổi số, vừa mở rộng cánh cửa thu hút nhân tài toàn cầu, đồng thời đặt ra “vạch đích” mới cho năng lực quản trị nhân sự và tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia và cả các doanh nghiệp nội địa đang “khát” nhân sự quốc tế chất lượng cao.
Những thay đổi đột phá
Trước đây, Nghị định 152 là nền tảng điều chỉnh toàn bộ hoạt động quản lý NLĐNN làm việc tại Việt Nam và cả lao động Việt Nam làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài. Các tiêu chí phân loại vị trí công việc gồm nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật, dù đã được định nghĩa nhưng vẫn mang tính định tính, để lại nhiều khoảng trống dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau ở các địa phương. Đơn cử là quy định về công việc mà NLĐNN dự kiến làm việc ở Việt Nam phải phù hợp với bằng cấp đại học hoặc cao hơn mà NLĐNN đạt được từ các trường đại học ở nước ngoài, trong khi chưa có định nghĩa rõ ràng vị trí công việc nào được gọi là giám đốc điều hành. Sau đó, Nghị định 70 ra đời nhằm tháo gỡ những điểm còn vướng mắc trong Nghị định 152, nhưng lại bắt buộc người sử dụng lao động phải đăng tin tuyển dụng người lao động Việt Nam trước khi tiến hành các bước tuyển dụng NLĐNN, khiến quy trình xin giấy phép lao động trở nên kéo dài mang tính hình thức và gây không ít cản trở cho hoạt động của doanh nghiệp.
Nghị định 219 ra đời đã thu hẹp phạm vi điều chỉnh, chỉ tập trung vào hai đối tượng là NLĐNN và người sử dụng NLĐNN. Ngay tại điều 3 của nghị định này, bốn nhóm vị trí công việc vốn gây nhiều tranh cãi trước đây đã được định nghĩa một cách cụ thể và lượng hóa rõ ràng hơn. Theo đó, “nhà quản lý” không chỉ giới hạn ở khái niệm tại khoản 24 điều 4 Luật Doanh nghiệp, mà còn bao gồm cả người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Giám đốc điều hành được xác định là người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh hoặc trực tiếp điều hành một lĩnh vực, đồng thời phải có tối thiểu ba năm kinh nghiệm phù hợp.
Không những thế, tiêu chuẩn dành cho chuyên gia đã được thay đổi đột phá khi yêu cầu kinh nghiệm ba năm giảm xuống còn hai năm, thậm chí chỉ yêu cầu một năm kinh nghiệm đối với các chuyên gia làm trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia hoặc các lĩnh vực ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, yêu cầu về lao động kỹ thuật cũng được nới lỏng khi chỉ cần đã qua đào tạo ít nhất một năm và hai năm kinh nghiệm, hoặc chỉ cần ba năm kinh nghiệm phù hợp, thay vì “ngưỡng” năm năm như trước đây.
Một thay đổi đáng chú ý trong Nghị định 219 là thẩm quyền cấp giấy phép lao động được tập trung về một mối. Kể từ ngày 7-8-2025, UBND cấp tỉnh là cơ quan duy nhất có thẩm quyền cấp, cấp lại, gia hạn, thu hồi loại giấy phép này và giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động. UBND cấp tỉnh có thể phân cấp cho cơ quan chuyên môn trực thuộc, nhưng quyền ra quyết định vẫn tập trung ở UBND cấp tỉnh. Việc tập trung thẩm quyền này thay cho mô hình phân tán trước đây (thẩm quyền có thể thuộc Bộ hoặc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội), chấm dứt tình trạng áp dụng pháp luật “mỗi nơi một kiểu” và giúp doanh nghiệp chuẩn bị hồ sơ thuận lợi hơn.
Nghị định 219 không chỉ là một văn bản pháp lý điều chỉnh về người lao động nước ngoài, mà còn là một công cụ quản trị thị trường lao động quốc tế với tinh thần hội nhập, minh bạch và hiệu quả. Bên cạnh việc mở ra cơ hội tuyển dụng nhân sự quốc tế chất lượng cao, nghị định mới cũng đặt ra yêu cầu doanh nghiệp phải quản trị nguồn nhân lực nước ngoài một cách chiến lược, bài bản và tuân thủ đúng quy định pháp luật.
Bên cạnh đó, một số thủ tục hành chính liên quan cũng đã có bước cải tiến đáng kể. Nghị định 219 đã bãi bỏ yêu cầu đăng tuyển dụng người lao động Việt Nam trước khi tuyển dụng NLĐNN, gộp bước xin chấp thuận vị trí và xin giấy phép lao động hoặc giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Đồng thời, nghị định này cũng bổ sung quy trình liên thông mới theo hướng cấp giấy phép lao động và phiếu lý lịch tư pháp được thực hiện đồng thời trên cổng dịch vụ công quốc gia. Người sử dụng lao động có thể nộp cả hai loại hồ sơ trực tuyến, ủy quyền cho cơ quan chức năng xin phiếu lý lịch tư pháp của NLĐNN. Cơ chế gộp và liên thông này kết nối giữa UBND tỉnh và cơ quan công an, trả kết quả điện tử đồng thời cho cả hai thủ tục, từ đó rút ngắn đáng kể thời gian và giảm thiểu số lần nộp hồ sơ cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, cơ chế thông báo đối với các trường hợp không cần giấy xác nhận miễn giấy phép lao động cũng được thay đổi. Doanh nghiệp nay chỉ cần thông báo tới cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tại địa phương nơi NLĐNN dự kiến làm việc, trước ít nhất ba ngày làm việc. Nội dung thông báo gồm các thông tin cơ bản về nhân thân, hộ chiếu, đơn vị sử dụng và thời gian làm việc của NLĐNN. Quy định mới này thật sự đã tạo điều kiện để địa phương theo dõi, quản lý sát sao, vừa giúp doanh nghiệp linh hoạt hơn trong việc bố trí và điều phối NLĐNN.
Chưa hết, Nghị định 219 mở rộng danh mục các trường hợp không thuộc diện cấp giấy phép lao động lên 15 trường hợp, bổ sung các nhóm làm việc trong lĩnh vực tài chính, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, hoặc lĩnh vực ưu tiên được cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Đồng thời, doanh nghiệp phải gửi thông báo trước ít nhất ba ngày làm việc. Trước đây, Nghị định 152 cũng miễn cho các trường hợp làm việc dưới 30 ngày/lần và không quá 90 ngày/năm, nhưng không quy định rõ nghĩa vụ thông báo này.
Về thời hạn giấy phép lao động và giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động, Nghị định 219 vẫn giữ mức quy định tối đa hai năm, nhưng đã liệt kê rõ các căn cứ xác định thời hạn trên, bao gồm hợp đồng lao động, văn bản cử đi công tác, thỏa thuận quốc tế, giấy phép hoạt động của doanh nghiệp... Và số lần gia hạn, theo nghị định mới, chỉ được một lần duy nhất. Đồng thời, NLĐNN nào đã có giấy phép lao động tại một tỉnh được phép làm việc ở nhiều địa phương, với điều kiện doanh nghiệp phải thông báo trước ba ngày cho nơi họ dự kiến làm việc. Những thay đổi này nhằm tạo sự minh bạch và đồng bộ trong quá trình cấp phép, đồng thời cơ quan quản lý có thể dễ dàng xác định thời hạn phù hợp với từng trường hợp cụ thể, doanh nghiệp cũng chủ động hơn trong việc tính toán chiến lược nhân sự nước ngoài ngay từ đầu và linh hoạt.
Ở Nghị định 219, danh sách các trường hợp thu hồi giấy phép lao động và giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động cũng được bổ sung đầy đủ bao gồm: hết hạn, vi phạm nghĩa vụ, sử dụng sai mục đích, bị khởi tố, doanh nghiệp chấm dứt hoạt động hoặc bên cử người lao động gửi văn bản ngừng hợp tác. Nhờ đó, các cơ quan quản lý có cơ sở pháp lý chặt chẽ hơn để xử lý, còn doanh nghiệp và người lao động cũng nắm rõ rủi ro pháp lý nếu vi phạm.
Doanh nghiệp cần làm gì với Nghị định 219?
Qua những thay đổi trên của Nghị định 219, có thể thấy rằng khi đặt cạnh Nghị định 152 và Nghị định 70, Nghị định 219 đã thể hiện triết lý quản lý mới với các tiêu chí rõ ràng, thẩm quyền tập trung, thủ tục điện tử hóa, danh mục miễn giấy phép lao động được mở rộng kèm nghĩa vụ thông báo nhằm bảo đảm sự linh hoạt mà vẫn giữ được tính kiểm soát trong quản lý NLĐNN. Qua đó, doanh nghiệp được hưởng lợi từ tiêu chí nới lỏng với chuyên gia và lao động kỹ thuật, cơ chế làm việc đa địa phương cũng như thủ tục hành chính nhanh gọn. Tuy nhiên, yêu cầu ba năm kinh nghiệm cho vị trí giám đốc điều hành và chỉ cho phép một lần gia hạn giấy phép lao động là những điểm mà doanh nghiệp cần lưu ý và tính toán kỹ, tránh rơi vào thế bị động khi nhân sự chủ chốt hết hạn giấy phép lao động.
Để thích ứng với các thay đổi này, doanh nghiệp cần rà soát toàn bộ NLĐNN hiện có, đối chiếu với tiêu chí mới tại điều 3 Nghị định 219, đồng thời chuẩn bị đầy đủ hồ sơ bằng cấp, kinh nghiệm, lĩnh vực hoạt động của NLĐNN. Quy trình giải trình nhu cầu, nộp hồ sơ cấp phép lao động và thông báo di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp cần được chuẩn hóa, áp dụng đúng các mốc thời gian bắt buộc. Việc tận dụng hợp pháp các trường hợp miễn giấy phép lao động có thể giúp tiết kiệm đáng kể thời gian và chi phí, nhưng cần hiểu rõ về phạm vi miễn trừ để tránh rủi ro vi phạm không đáng có.
Có thể nói, Nghị định 219 không chỉ là một văn bản pháp lý điều chỉnh về NLĐNN, mà còn là một công cụ quản trị thị trường lao động quốc tế với tinh thần hội nhập, minh bạch và hiệu quả. Bên cạnh việc mở ra cơ hội tuyển dụng nhân sự quốc tế chất lượng cao, nghị định mới cũng đặt ra yêu cầu doanh nghiệp phải quản trị nguồn nhân lực nước ngoài một cách chiến lược, bài bản và tuân thủ đúng quy định pháp luật.
(*) Công ty Luật TNHH Phuoc & Partners
LS. Dương Tiếng Thu - Lường Thị Trúc Linh (*)