Sự trưởng thành của doanh nghiệp trong nước, cùng với các cơ chế chính sách ngày càng rõ ràng từ Nhà nước, đang tạo ra thời cơ chín muồi để Việt Nam hình thành và phát triển ngành công nghiệp chế tạo đường sắt. Trong bức tranh đó, Nghị định 319/2025/NĐ-CP được xem là thời cơ quan trọng, đặt nền móng pháp lý cho quá trình này.
Vai trò mở đường
Theo ông Nguyễn Xuân Thủy, nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Giao thông Vận tải, khi được chuyển giao công nghệ một cách phù hợp và có lộ trình, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có khả năng từng bước làm chủ công nghiệp đường sắt. Từ chế tạo toa xe, hệ thống cấp điện động lực, thông tin - tín hiệu, đến vận hành, bảo trì và sản xuất linh kiện thay thế, năng lực nội địa hoàn toàn có thể được hình thành. Do đó, các dự án đường sắt, đặc biệt là đường sắt tốc độ cao, không chỉ là bài toán hạ tầng mà còn là tiền đề để phát triển một ngành công nghiệp mới.
Theo quy hoạch phát triển đường sắt đến năm 2030, Việt Nam sẽ nâng cấp 7 tuyến hiện hữu và xây mới 2 tuyến đường sắt tốc độ cao; tầm nhìn đến năm 2050, mạng lưới có thể đạt 25 tuyến với tổng chiều dài hơn 6.300 km. Với quy mô đầu tư ước tính trên 100 tỷ USD, đây được xem là cơ hội lịch sử để tái định hình diện mạo ngành đường sắt quốc gia. Tuy nhiên, đặc thù của lĩnh vực này là yêu cầu vốn đầu tư rất lớn, công nghệ phức tạp, thời gian triển khai dài và cần một cơ chế quản lý, vận hành đặc biệt hiệu quả.
Nghị định 319 được kỳ vọng mở hành lang pháp lý quan trọng, tạo cú hích thu hút đầu tư, từng bước hình thành ngành công nghiệp chế tạo đường sắt mang dấu ấn Việt Nam
Trong bối cảnh đó, việc Chính phủ ban hành Nghị định 319/2025/NĐ-CP ngày 12/12/2025 đã tạo ra khung pháp lý then chốt. Nghị định quy định cụ thể nội dung, trình tự, thủ tục và thẩm quyền triển khai các cơ chế, chính sách đặc thù về nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ cho các dự án đường sắt trọng điểm, theo các nghị quyết của Quốc hội.
Điểm cốt lõi của Nghị định 319 là lần đầu tiên đặt ra hệ tiêu chí rõ ràng để lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam được giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng tiếp nhận chuyển giao công nghệ. Theo đó, doanh nghiệp phải được thành lập hợp pháp, có ngành nghề phù hợp, có cơ sở vật chất, nhà xưởng đáp ứng yêu cầu công nghệ, có năng lực tài chính và khả năng huy động vốn, cùng đội ngũ nhân sự đủ trình độ để tiếp nhận, làm chủ và vận hành công nghệ. Đồng thời, doanh nghiệp phải có kế hoạch huy động nguồn lực, cam kết thực hiện và kinh nghiệm hợp tác quốc tế trong chuyển giao công nghệ.
Trần Khắc Tâm, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP. Cần Thơ, Phó Chủ tịch Hội đồng các Hiệp hội Doanh nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long nhận định, Nghị định 319 chính là “bộ lọc” để lựa chọn những doanh nghiệp đủ năng lực tham gia kiến tạo ngành công nghiệp chế tạo đường sắt. Quan trọng hơn, các quy định của nghị định buộc chủ đầu tư và đối tác nước ngoài phải tính đến năng lực tiếp nhận và làm chủ công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam, thay vì tiếp tục cách làm “nhập khẩu trọn gói”. Điều này mở ra cơ hội cho các nhà máy, xưởng chế tạo, doanh nghiệp cung ứng linh phụ kiện trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị mới, qua đó thúc đẩy đầu tư mở rộng sản xuất và nâng cấp công nghệ.
Ông Trần Khắc Tâm kỳ vọng các tuyến đường sắt mở ra giao thương lan tỏa, việc giao nhiệm vụ gắn với chuyển giao và làm chủ công nghệ cho doanh nghiệp nhìn xa hơn là Nhà nước tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân lớn lên cùng dự án quốc gia. Đây không chỉ là chính sách kỹ thuật, mà là bước đi chiến lược nhằm hình thành lực lượng doanh nghiệp nội địa đủ cho công nghiệp đường sắt.
Với các tiêu chí khắt khe về kỹ thuật, an toàn và khả năng chuyển giao, Nghị định 319 từng bước hình thành cơ chế pháp lý để lựa chọn những doanh nghiệp nòng cốt, làm hạt nhân phát triển công nghiệp đường sắt. Từ đó, chuỗi cung ứng sản phẩm, hàng hóa công nghiệp đường sắt trong nước được định hình, hướng tới mục tiêu làm chủ công nghệ và xây dựng thương hiệu công nghiệp đường sắt “Made in Vietnam”.
Lực đẩy cho doanh nghiệp nội
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp trong nước đã chủ động chuẩn bị nguồn lực để đón đầu cơ hội này. Một số “đầu tàu” trong lĩnh vực công nghiệp như Hòa Phát, THACO, Vingroup, cùng các tập đoàn nhà nước như Viettel, EVN, Lilama… đang được nhắc tới như những ứng viên tiềm năng khi đối chiếu với các tiêu chí của Nghị định 319.
“Vua thép” Hòa Phát được đánh giá là cái tên mạnh nhất ở trụ cột vật liệu và kết cấu đường ray. Với năng lực luyện thép lớn nhất Đông Nam Á, Hòa Phát có khả năng sản xuất thép ray chất lượng cao, gia công kết cấu cầu thép và thử nghiệm vật liệu mới. Việc nội địa hóa thép ray dự kiến giúp giảm chi phí 15 - 20% so với nhập khẩu. Cũng không phải không có cơ sở để thị trường tin vào điều này khi ngay từ đầu năm nay, tỷ phú Trần Đình Long đã công bố kế hoạch xây nhà máy sản xuất ray thép cho đường sắt cao tốc dù chưa có cơ chế. Và ngày 19/12 tới đây, Hòa Phát sẽ khởi công dự án sản xuất thép đặc biệt và ray đường sắt tại Dung Quất.
Nghị định 319 mở ra cơ hội để Việt Nam xây dựng ngành công nghiệp chế tạo đường sắt bài bản, hiện đại
Vingroup và THACO là các doanh nghiệp có sức mạnh cơ khí và công nghệ. Vingroup có lợi thế lớn trong cơ khí chính xác, công nghệ và sản xuất lớn khi VinFast, VinES đã làm chủ các dây chuyền tự động hóa, thiết kế điện - điện tử phức tạp. Vingroup có thể tham gia chế tạo toa xe, ứng dụng AI trong vận hành, hệ thống pin cho đoàn tàu điện hoặc tàu hybrid…
Trong khi đó, Thaco sở hữu khu công nghiệp cơ khí quy mô lớn nhất Việt Nam, sẵn sàng sản xuất khung xe, linh kiện cơ khí và module phụ trợ. Thaco đã hợp tác với Hyundai Rotem để nhận chuyển giao công nghệ sản xuất tàu điện, hướng tới kiểm soát toàn bộ chuỗi giá trị từ sản xuất đến bảo dưỡng theo chuẩn quốc tế.
Một cái tên khác là Công ty Cổ phần Điện lực GELEX (GELEX Electric) cũng từng bày tỏ sự quan tâm với mảng dây cáp ngầm phục vụ đường sắt tốc độ cao, đây là mặt hàng chưa từng được sản xuất tại Việt Nam.
Hay như Viettel, với năng lực tự phát triển radar và hệ thống viễn thông, là ứng viên sáng giá cho hệ thống tín hiệu đường sắt và trung tâm điều hành thông minh. Còn EVN có cơ hội lớn trong việc cung cấp hạ tầng cấp điện, trạm biến áp và công nghệ điều khiển năng lượng cho tàu cao tốc.
Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, ông Nguyễn Chí Sáng, cho biết, nhiều doanh nghiệp đã thiết lập quan hệ hợp tác với đối tác quốc tế nhằm tiếp nhận chuyển giao công nghệ, hướng tới nội địa hóa sản xuất đầu máy, toa xe cho đường sắt đô thị và đường sắt tốc độ cao. Điển hình là hợp tác giữa THACO và Hyundai Rotem (Hàn Quốc), hay việc Hòa Phát đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại từ Tập đoàn SMS Group (Đức) để đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của đường sắt cao tốc.
Có thể nói, Nghị định 319 đã hoàn thiện vai trò “mở đường”, thiết lập tiêu chí lựa chọn nhà cung cấp theo hướng chặt chẽ và minh bạch, nhằm tìm ra những doanh nghiệp có tiềm lực thực sự, đủ sức tiếp cận và làm chủ công nghệ đường sắt tiên tiến. Chỉ những doanh nghiệp sản xuất thực, đầu tư bài bản cho sản xuất và công nghệ mới có thể trở thành lực lượng nòng cốt của ngành.
Nghị định 319 không chỉ là một văn bản quản lý, mà còn là tín hiệu chính sách mạnh mẽ, khuyến khích doanh nghiệp trong nước dồn nguồn lực “phụng sự” nhiệm vụ quốc gia, tham gia sâu hơn vào các dự án thí điểm, chuyển giao công nghệ và sản xuất thiết bị. Qua đó, từng bước hình thành và hoàn thiện chuỗi giá trị công nghiệp chế tạo đường sắt mang dấu ấn Việt Nam.
Cẩm Hằng