Nghị quyết 66: 'Đột phá của đột phá' trong xây dựng pháp luật

Nghị quyết 66: 'Đột phá của đột phá' trong xây dựng pháp luật
14 giờ trướcBài gốc
"Đột phá của đột phá" trong hoàn thiện thể chế phát triển
Ngày 30/4/2025, trong một ngày quan trọng của cả dân tộc, Việt Nam kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Nghị quyết 66 đã đề ra nhiều định hướng cải cách lớn, trong đó nổi bật là tư duy đổi mới toàn diện về cách xây dựng và thực thi pháp luật. Trong nghị quyết này, Bộ Chính trị nhấn mạnh, xây dựng và thi hành pháp luật là "đột phá của đột phá" trong hoàn thiện thể chế phát triển.
Nghị quyết chỉ rõ, trong thời gian qua, công tác xây dựng và thi hành pháp luật còn nhiều hạn chế, bất cập. Một số chủ trương, định hướng của Đảng chưa được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ. Tư duy xây dựng pháp luật trong một số lĩnh vực còn thiên về quản lý. Chất lượng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn.
Còn có những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, chưa rõ ràng, cản trở việc thực thi, không thuận lợi cho việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút và khơi thông nguồn lực đầu tư. Việc phân cấp, phân quyền chưa đủ mạnh; thủ tục hành chính còn rườm rà.
Tổ chức thực thi pháp luật vẫn là khâu yếu; thiếu cơ chế phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả, chậm nghiên cứu, ban hành chính sách, pháp luật điều chỉnh những vấn đề mới, chưa tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi để thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới.
Việt Nam đang đứng trước cơ hội chưa từng có để cải cách, hoàn thiện thể chế. Ảnh: Hoàng Anh.
Trong bối cảnh thế giới đang có những thay đổi mang tính thời đại, để đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển bứt phá, giàu mạnh, hùng cường, phấn đấu tăng trưởng kinh tế “hai con số”, công tác xây dựng và thi hành pháp luật phải được đổi mới căn bản, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Chính vì vậy, với Nghị quyết 66, Bộ Chính trị yêu cầu quán triệt thực hiện tốt nhiều nội dung về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Trong đó, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường kiểm soát quyền lực; phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ; phòng ngừa, ngăn chặn mọi biểu hiện trục lợi, hướng lái chính sách.
Đồng thời, vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sự tham gia rộng rãi, thực chất của người dân, tổ chức, doanh nghiệp trong cũng cần được phát huy tốt trong xây dựng và thi hành pháp luật.
Bên cạnh đó, xây dựng pháp luật phải bám sát thực tiễn, nắm bắt mọi cơ hội, mở đường, khơi thông mọi nguồn lực, đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ cho phát triển, tạo dư địa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hai con số.
Điểm khác biệt của nghị quyết này là nhấn mạnh: nhà nước đầu tư cho công tác xây dựng chính sách, pháp luật là đầu tư cho phát triển. Nguồn lực để đầu tư, đẩy mạnh chuyển đổi số và có chế độ, chính sách đặc thù, vượt trội cho công tác nghiên cứu chiến lược, chính sách, xây dựng pháp luật và đội ngũ cán bộ thực hiện các nhiệm vụ này cần được ưu tiên để đảm bảo chất lượng xây dựng pháp luật.
Công tác thi hành pháp luật cũng được chú trọng, tập trung xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng và thi hành pháp luật.
Ngay sau khi ban hành Nghị quyết 66, ngày 1/5, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 288-NQ/TW thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật do Tổng Bí thư Tô Lâm làm trưởng ban. Điều đó cho thấy quyết tâm tất lớn của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của đất nước trong việc nhanh chóng đưa nghị quyết vào thực tiễn.
Nghị quyết 66 cũng đặt ra các mục tiêu hết sức cấp bách, đến năm 2030 Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi với cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, nhất quán.
Pháp luật mở đường cho kiến tạo phát triển, huy động mọi người dân và doanh nghiệp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội để đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao,
Năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những “điểm nghẽn” do quy định pháp luật. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam có hệ thống pháp luật chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến và phù hợp với thực tiễn đất nước.
Pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội, quản trị quốc gia hiện đại với bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045.
Bảy nhiệm vụ chiến lược của Nghị quyết 66
Để hiện thực hóa các định hướng, Nghị quyết 66 đề ra bảy nhiệm vụ, giải pháp chiến lược.
Thứ nhất là bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng và thi hành pháp luật.
Người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật, chịu trách nhiệm chính về chất lượng chính sách, pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý, gắn với công tác đánh giá, khen thưởng.
Đáng chú ý, nghị quyết yêu cầu các bộ, ngành và cơ quan của Quốc hội cơ cấu ít nhất một lãnh đạo có chuyên môn pháp luật. Các cấp ủy địa phương quan tâm phân công cấp ủy viên phụ trách công tác tư pháp và cơ cấu giám đốc sở tư pháp tham gia cấp ủy cấp tỉnh. Đồng thời, thực hiện cơ chế điều động, luân chuyển cán bộ, công chức của bộ, ngành tư pháp để bổ sung kinh nghiệm thực tiễn.
Thứ hai, đổi mới tư duy, định hướng xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực phát triển
Công tác xây dựng pháp luật phải thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng; xuất phát từ lợi ích toàn cục của đất nước; đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”.
Các quy định của luật phải mang tính ổn định, đơn giản, dễ thực hiện, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm.
Nghị quyết yêu cầu công tác xây dựng pháp luật phải chủ động nghiên cứu chiến lược, chính sách từ sớm, từ thực tiễn, từ kinh nghiệm của thế giới, góp phần tăng cường tính dự báo và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật.
Cơ chế tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của các đối tượng chịu sự tác động phải được thực hiện nghiêm; không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong thiết kế chính sách và xây dựng pháp luật.
Pháp luật về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng và hoàn thiện theo hướng xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi, thông thoáng, minh bạch, an toàn, bảo đảm thực chất quyền tự do kinh doanh, sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong đó, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Pháp luật cần tạo cơ sở pháp lý để khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận hiệu quả các nguồn lực về vốn, đất đai, nhân lực chất lượng cao; thúc đẩy hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu; hỗ trợ thực chất, hiệu quả doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bên cạnh đó, nghị quyết cũng yêu cầu tập trung xây dựng pháp luật về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tạo hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, phi truyền thống (trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khai thác nguồn lực dữ liệu, tài sản mã hóa...) để hình thành các động lực tăng trưởng mới.
Thứ ba là tạo đột phá trong công tác thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực và hiệu quả; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng và thi hành pháp luật.
Nghị quyết yêu cầu ưu tiên bảo đảm hiệu quả thi hành pháp luật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và trong các lĩnh vực dân sinh quan trọng khác.
Đặc biệt, không “hình sự hóa” các mối quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự; không dùng biện pháp hành chính để can thiệp, giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế.
Thứ tư là nâng cao hiệu quả công tác hợp tác quốc tế, pháp luật quốc tế, mở rộng hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp; xây dựng, phát triển mạng lưới chuyên gia pháp lý nước ngoài, bao gồm cả người Việt Nam ở nước ngoài để hỗ trợ nghiên cứu, tư vấn các vấn đề mới trong phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và chuyển đổi số.
Thứ năm là xây dựng giải pháp đột phá nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật. Nghị quyết nêu rõ, cần thực hiện chính sách đặc thù, vượt trội, áp dụng chế độ thù lao, thuê khoán tương xứng để thu hút, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia các nhiệm vụ, hoạt động xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật.
Các cơ sở nghiên cứu chiến lược, chính sách, các cơ sở nghiên cứu pháp luật của các cơ quan Trung ương cần được quan tâm đầu tư, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật.
Thứ sáu, tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, áp dụng các cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Thứ bảy là thực hiện cơ chế tài chính đặc biệt cho công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Trong đó, nghị quyết yêu cầu đổi mới cơ chế phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách dành cho công tác xây dựng pháp luật trên nguyên tắc kịp thời, đúng, đủ và gắn với khoán chi theo kết quả, sản phẩm của từng nhiệm vụ, hoạt động.
Chi cho công tác xây dựng pháp luật không thấp hơn 0,5% tổng chi ngân sách hằng năm và tăng dần theo yêu cầu phát triển.
Bệ phóng, đánh thức tiềm năng cho tăng trưởng
TS Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đánh giá, Nghị quyết 66 có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ là một định hướng về kỹ thuật lập pháp, mà là một bản thiết kế chiến lược để tái cấu trúc nền tảng thể chế quốc gia.
Với sự hoàn thiện xây dựng chính sách và thực thi pháp luật, một hệ thống pháp luật hiện đại, khả thi, minh bạch sẽ là lợi thế phát triển đặc biệt quan trọng bệ phóng cho đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển, văn minh và giàu mạnh.
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và hội nhập sâu rộng, vai trò kiến tạo của pháp luật càng trở nên cấp thiết.
Khi pháp luật trở thành "đột phá của đột phá", đó cũng là lúc Nhà nước thực sự trở thành Nhà nước pháp quyền và xã hội phải luôn kỷ cương, sáng tạo và phát triển bền vững, ông Dũng nhấn mạnh.
Trước đó, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhiều lần nhìn nhận, ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực. Trong đó, thể chế là 'điểm nghẽn của điểm nghẽn' cho phát triển.
Tại Hội nghị quán triệt, triển khai thi hành các luật, nghị quyết được thông qua tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV ngày 13/1/2025, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng khẳng định: "Thể chế là nguồn lực, động lực phát triển; đầu tư cho thể chế là đầu tư cho sự phát triển.
Thể chế phù hợp sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển, hoàn thiện thể chế sẽ góp phần đắc lực thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Chính vì vậy, theo nhiều chuyên gia Nghị quyết 66 chính là đang khơi thông các điểm nghẽn về thể chế, xây dựng và thực thi pháp luật, để các đột phá khác có thể phát huy hiệu quả.
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương, đột phá về thể chế là "đột phá của đột phá", phải đi sớm, đi trước mở đường cho phát triển.
Việc hoàn thiện thể chế, đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của đất nước hiện nay và trong thời gian tới.
"Với quyết tâm rất lớn của Đảng, Chính phủ và cả những áp lực, chúng ta đang có một cơ hội chưa từng có để cải cách, hoàn thiện thể chế", ông Cung nhấn mạnh và tin tưởng, Việt Nam sẽ làm được, để mở đường, khơi thông những nguồn lực, đưa đất nước phát triển.
Phương Linh
Nguồn Nhà Quản Trị : https://theleader.vn/nghi-quyet-66-dot-pha-cua-dot-pha-trong-xay-dung-phap-luat-d39978.html